Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

Các nghị định 158.176,178,179/2013/NĐ-CP. tháng 11.2013.

1. Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo.
a) Hiệu lực thi hành: Ngày 01/01/2014.
Kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, các nghị định sau đây hết hiệu lực thi hành: Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa; Nghị định số 16/2012/NĐ-CP ngày 12/3/2012 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch; Nghị định số 37/2012/NĐ-CP ngày 24/4/2012 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể dục, thể thao.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định được ban hành để khắc phục những hạn chế, bất cập của quy định hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo; bảo đảm phù hợp, thống nhất với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và các quy định khác của pháp luật có liên quan, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 5 chương, 86 điều, quy định các hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo.
Mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch là 50.000.000 đồng, trong lĩnh vực quảng cáo là 100.000.000 đồng.
Đối với cùng một hành vi vi phạm, mức phạt tiền đối với tổ chức bằng hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
 2.Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
a) Hiệu lực thi hành: Ngày 31/12/2013.
Kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, các Nghị định sau đây hết hiệu lực thi hành: Nghị định số 45/2005/NĐ-CP ngày 06/4/2005 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế; Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 03/10/2006 quy định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em; Nghị định số 69/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 quy định xử phạt vi phạm hành chính về y tế dự phòng, môi trường y tế và phòng, chống HIV/AIDS; Nghị định số 92/2011/NĐ-CP ngày 17/10/2011 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm y tế; Nghị định số 93/2011/NĐ-CP ngày 18/10/2011 quy định xử phạt vi phạm hành chính về thuốc, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế; Nghị định số 96/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2011 quy định xử phạt vi phạm hành chính về khám bệnh, chữa bệnh.
Đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế xảy ra trước khi Nghị định này có hiệu lực mà sau đó mới bị phát hiện hoặc xem xét, giải quyết thì áp dụng các quy định có lợi cho tổ chức, cá nhân vi phạm.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định được ban hành để khắc phục những hạn chế, bất cập của quy định hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế; bảo đảm phù hợp, thống nhất với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và pháp luật chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực y tế, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 4 chương, 97 điều, quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền lập biên bản, thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
Mức phạt tiền ti đa đối với cá nhân vi phạm hành chính về dân số là 30.000.0000 đồng; về y tế dự phòng và phòng, chống HIV/AIDS là 50.000.000 đồng; về bảo hiểm y tế là 75.000.000 đồng; về khám bệnh, chữa bệnh, dược, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế là 100.000.000 đồng.
Đối với cùng một hành vi vi phạm, mức phạt tiền đối với tổ chức bằng hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Nghị định số 178/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm.
a) Hiệu lực thi hànhNgày 31/12/2013.
Kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, Nghị định số 91/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm hết hiệu lực.
Các hành vi vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực mà sau đó mới bị phát hiện hoặc đang xem xét, giải quyết thì áp dụng các quy định có lợi cho cá nhân, tổ chức vi phạm.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định được ban hành để khắc phục những hạn chế, bất cập của quy định hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm; bảo đảm phù hợp, thống nhất với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và pháp luật chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực an toàn thực phẩm, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 4 chương, 40 điều quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và mức phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm.
Nghị định được áp dụng đối với: (1) Cá nhân, tổ chức Việt Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm trên lãnh thổ Việt Nam; (2) Người có thẩm quyền lập biên bản, xử phạt vi phạm hành chính và các cá nhân, tổ chức khác có liên quan.
Mức phạt tiền tối đa đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức.
Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức gấp hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
29. Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
a) Hiệu lực thi hành: Ngày 30/12/2013.
Kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hànhNghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 30/12/2009 của Chính phủ về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường hết hiệu lực.
Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được thực hiện hoặc phát hiện trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành nhưng chưa lập biên bản vi phạm hành chính thì xử phạt theo quy định của Nghị định này.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định được ban hành để khắc phục những hạn chế, bất cập của quy định hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; bảo đảm phù hợp, thống nhất với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và pháp luật chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực bảo vệ môi trườngđáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 5 chương, 74 điều, (kèm theo Phụ lục danh mục một số mẫu biên bản, quyết định sử dụng trong xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trườngquy định về: (1) Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, hình thức xử phạt, mức phạt, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả; (2) Thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng hình thức xử lý buộc di dời, cấm hoạt động đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; (3) Công bố công khai thông tin về vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của cơ sở và khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp tập trung; (4) Các biện pháp cưỡng chế, thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định đình chỉ hoạt động; quyết định buộc di dời, cấm hoạt động đối với cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Nghị định là cá nhân, tổ chức trong nước và cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mức phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân và 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức.
Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính, mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính của tổ chức bằng hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân.

Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2013

Lời kêu gọi Công lý


Lời kêu gọi Công lý


Chúng ta, những người xướng lên bản Tuyên ngôn Công lý cho Đoàn Văn Vươn, nhận thức rằng:

Phiên tòa xét xử Đoàn Văn Vươn trong 3 ngày qua đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc tố tụng cơ bản:
  • Vi phạm Điều 10, Bộ luật Tố tụng hình sự: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.”
  • Vi phạm Điều 18, Bộ luật Tố tụng hình sự: “Việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định.”
  • Vi phạm Điều 218, Bộ luật Tố tụng hình sự: “Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến…
Chúng ta thực sự lo ngại bản án mà Tòa án Nhân dân TP. Hải Phòng sẽ tuyên vào ngày hôm nay, 5/4/2013.

Vì lẽ đó, 

Chúng ta một lần nữa kêu gọi ông Phạm Đức Tuyên – Phó Chánh án Tòa án Nhân dân TP. Hải Phòng, chủ tọa phiên tòa, ông Trần Mạnh Hùng – Thẩm phán, các ông Bùi Đăng Dung và Nguyễn Thanh Bình – Kiểm sát viên giữ quyền công tố, cùng Hội thẩm nhân dân (bao gồm ông Hà Văn Nhiều, ông Nguyễn Chanh và bà Nguyễn Thị Vinh) hãy can đảm thực hiện đúng vai trò xét xử của mình, một cách độc lập và khách quan nhất, trong việc phân định đâu là Công lý. Các vị có thể làm được nếu có quyết tâm! Và nhờ đó tên tuổi của các vị sẽ được nhắc đến như một biểu tượng của Công lý vào ngày 5/4/2013 và cả mai sau.

Chúng ta cũng kêu gọi, Đại tá Đỗ Hữu Ca – Giám đốc Công An TP. Hải Phòng, sau khi phiên tòa sơ thẩm xét xử ông Đoàn Văn Vươn và thân nhân kết thúc, bằng chính lương tâm của mình, hãy suy ngẫm và tự phán xét rằng: “Với những gì mình đã làm, liệu mình có nên tiếp tục đảm nhiệm vị trí hiện nay hay không?”

Chúng ta cũng kêu gọi, chính quyền nhân dân các cấp có liên quan tới vụ án, trên tinh thần thượng tôn pháp luật, hãy dũng cảm thừa nhận những sai trái của mình nếu có, và hãy nỗ lực hành xử sao cho đích thực là những công bộc của nhân dân. 

Chúng ta cũng kêu gọi các nhóm người đang tạo dựng đặc quyền từ đất đai, hãy hoạt động trên nền tảng của sự lương thiện, đừng vì lợi ích cục bộ mà làm phân hóa xã hội, tạo nên những hệ lụy bất thường.

Chúng ta cũng không quên kêu gọi các luật sư, luật gia, các sinh viên luật hãy luôn là người gìn giữ cán cân Công lý, là ngọn cờ tiên phong, dấn thân vì nền Công lý đang còn chịu thử thách.

Và Chúng ta, những con người thuộc về lương tri và lẽ phải, một lần nữa kêu gọi Công lý trở về. Không chỉ cho gia đình Đoàn Văn Vươn, mà cho cả chính Chúng ta với một sự bảo đảm bằng an và thịnh vượng cho thế hệ tương lai.
---

Những người Việt Nam, dù đang ở bất kỳ nơi đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, hãy tiếp tục tiếp sức cho bản Tuyên Ngôn Công lý cho Đoàn Văn Vươn, dù biết ánh sáng Công lý cho Đoàn Văn Vươn có thể bị che mờ, nhưng Chúng ta ngày hôm nay, những người cùng ký tên vào bản Tuyên ngôn đã là những chiến hữu quyết tâm bảo vệ lẽ phải và và gìn giữ cho lương tri được ngời sáng!

Sài Gòn, 5/4/2013, 10hAM

Nhóm khởi xướng Tuyên ngôn Công lý cho Đoàn Văn Vươn

Ký tên ủng hộ Công lý cho Đoàn Văn Vươn TẠI ĐÂY

Xem danh sách ký tên TẠI ĐÂY

Tuyên ngôn: Công lý cho Đoàn Văn Vươn



Tuyên ngôn: Công lý cho Đoàn Văn Vươn


[Link tới trang ký tên ủng hộ có ở cuối bài, hoặc ở đây.]

Xét rằng, trong vụ án Đoàn Văn Vươn, chính quyền huyện Tiên Lãng, Hải Phòng đã có nhiều sai phạm trong việc thực hiện ‘công vụ’, vi phạm nguyên tắc thượng tôn pháp luật và đi ngược lại lợi ích của người dân,

Xét rằng, căn cứ truy tố Đoàn Văn Vươn cùng một số thân nhân về tội giết người thi hành công vụ, theo điểm d, Khoản 1, Điều 93, Bộ luật hình sự, và chống người thi hành công vụ, theo điểm d, Khoản 2, Điều 257, cùng bộ luật, là không thỏa đáng, do căn cứ này vi phạm nguyên tắc về tính hợp pháp của công vụ,

Xét rằng, hành vi chống trả của Đoàn Văn Vươn cùng một số thân nhân, xuất phát từ quyền tự vệ và quyền bảo vệ đối với tài sản của gia đình đã được gây dựng trong nhiều năm, là hệ quả của ‘công vụ’ sai pháp luật,

Xét rằng, phiên xử sơ thẩm của vụ án vào tháng Tư tới đây có thể sẽ không đảm bảo được tính khách quan, bởi cáo trạng không lột tả được bản chất sự việc, không làm rõ những chứng cứ và nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, cùng nhiều bất cập khác,

Chúng ta, những người nhận thức rõ về các vấn đề trên, xướng lên bản Tuyên ngôn Công lý cho Đoàn Văn Vươn, nhằm nhắc nhở cơ quan xét xử (Tòa án Nhân dân TP. Hải Phòng), phải thực hiện xét xử công minh, tuân thủ các nguyên tắc xét xử của luật quốc gia và luật quốc tế, cùng các chuẩn mực nghề nghiệp khác. Cụ thể như sau: 

Theo Điều 130, Hiến pháp Việt Nam hiện hành, “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.”

Theo Điều 10, Tuyên ngôn Phổ quát về Nhân quyền, 1948: “Ai cũng có quyền, trên căn bản hoàn toàn bình đẳng, được một toà án độc lập và vô tư xét xử một cách công khai và công bằng để phán xử về những quyền lợi và nghĩa vụ của mình, hay về những tội trạng hình sự mà mình bị cáo buộc.”

Theo Khoản 1, Điều 14, Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự & Chính trị, 1966, mà Việt Nam đã gia nhập và do đó có nghĩa vụ thực hiện: “Mọi người đều bình đẳng trước các toà án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật...

Tuyên ngôn của chúng ta, những người yêu chuộng lẽ phải, không chỉ nhắc nhở, mà còn khuyến khích cơ quan xét xử hãy can đảm và thực hiện đúng vai trò quan tòa của mình, một cách độc lập và khách quan nhất có thể, trong việc phân định đâu là công lý.

Và vì thế, chúng ta ký tên vào bản tuyên ngôn này.

Chúng ta hiểu rằng, sự hưởng ứng dù chỉ bằng một chữ ký, cũng có thể góp phần đáng kể để tạo nên một danh sách hàng vạn chữ ký nhằm làm mạnh mẽ thêm tinh thần của Đoàn Văn Vươn.

Chúng ta hiểu rằng, sự hưởng ứng dù chỉ bằng một chữ ký, cũng có thể góp phần làm cho bóng tối khiếp sợ, và lùi bước trước sự lan tỏa của ánh sáng.

Chúng ta hiểu rằng, mỗi chữ ký của chúng ta, sẽ góp phần làm lay động những người bàng quan, và từ chỗ bàng quan, họ trở thành những chiến hữu.

Chúng ta hiểu rằng, mỗi chữ ký của chúng ta, sẽ góp phần tạo nên sức mạnh lớn lao của lẽ phải, để làm bừng lên ánh sáng công lý cho Đoàn Văn Vươn.

Đồng ký tên khởi xướng cho tuyên ngôn này:

Nhóm sinh viên Luật, TP. HCM:

1. Nguyễn Trang Nhung, Sinh viên Luật, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, lớp 4B Văn bằng 2 Chính quy, niên khóa 2011-2014

Quote yêu thích: "Ngay cả khi bạn không làm chính trị, chính trị sẽ đến với bạn." (Aung San Suu Kyi) 

2. Bùi Quang Viễn, Sinh viên Luật, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, lớp 3B Văn bằng 2 Chính quy, niên khóa 2010-2013

Quote yêu thích: "Điều duy nhất giúp cái ác chiến thắng là những người tốt không làm gì cả." (Edmond Burke)

3. Phạm Lê Vương Các, Sinh viên Luật, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, lớp AUF35 Văn bằng 1 Chính quy, niên khóa 2010-2014

Quote yêu thích: "Hạnh phúc trong tầm tay là biết chủ động dấn thân lựa chọn những khó khổ cho mình." (Phạm Lê Vương Các)  

Sài Gòn, 31/3/2013
---

Hãy để tuyên ngôn này được truyền đi và tiếp sức! Và hãy hi vọng rằng nó sẽ tạo nên một làn sóng hưởng ứng mạnh mẽ để triệu gọi công lý trở về.

Trang ký tên tại: 

Danh sách ký tên được cập nhật lập tức tại:
https://docs.google.com/spreadsheet/ccc?key=0Ag9Hx35xPjoEdElIRDZEZVQ0YndveXFTZ0VmWHlEVGc

Liên hệ với nhóm khởi xướng qua:
tuyenngondvv@gmail.com
---

Declaration: Justice for Doan Van Vuon

(Translated by Doan Trang)

Whereas, in the legal case of Doan Van Vuon (name in Vietnamese: Đoàn Văn Vươn), the local authority of Tien Lang (Tiên Lãng) district, Hai Phong (Hải Phòng) has committed a great many wrongdoings in performing “official duty”, violating the principle of rule of law, acting against the interests of the people;

Whereas, the charge against Doan Van Vuon and his relatives with “murder of persons being on public duties” as stipulated by Point D, Clause 1, Article 93, and “resisting persons in the performance of their official duties” as stipulated by Point D, Clause 2, Article 257, the Penal Code of Vietnam, is wrongful, because this charge violates the requirements of the lawfulness of official duties;

Whereas, the resistance by Doan Van Vuon and his relatives, which is based on his right to self-defense and to protect his family’s long-acquired property, came as a result of the wrongful so-called “official duty”;

Whereas, the magistrate’s court in the coming April may not ensure objectivity, because the indictment has already failed to fully describe the case or to clarify evidence and principles as to verify truth regarding the case, and because of many other shortcomings;

We, those who are fully conscious of the above-mentioned issues, make this Declaration of Justice for Doan Van Vuon, with the purpose of warning the tribunal – the People’s Court of Hai Phong City – to judge rightly and to observe the principles of trial under national and international laws and other codes of conduct.

This goes particularly as follows:

Under Article 30 of the current Vietnamese Constitution, “During trials, judges and people’s assessors are independent and subject only to the law.”

Under Article 10, the 1948 Universal Declaration of Human Rights, “Everyone is entitled in full equality to a fair and public hearing by an independent and impartial tribunal, in the determination of his rights and obligations and of any criminal charge against him.”

Under Clause 1, Article 14, the 1966 International Covenant on Civil and Political Rights, which Vietnam is a signatory and thus is obliged to implement, “All persons shall be equal before the courts and tribunals. (…) Everyone shall be entitled to a fair and public hearing by a competent, independent and impartial tribunal established by law.”

This Declaration of us, who are reason-loving, does not just warn but also encourage the tribunal to be courageous and to rightly implement its function of the judge, in the most possibly independent and objective way, to do justice.

And for these reasons, we sign on this Declaration.

We are aware that the support, even in the form of a signature only, can make substantial contribution to creating a list of thousands of signatures, thus uplifts Doan Van Vuon.

We are aware that the support, even in the form of a signature only, can help intimidate the dark into yielding to the light.

We are aware that each signature of us can help to stir the apathetic, and they will turn from apathy to sympathy to become our friends.

We are aware that each signature of us can contribute to the enormous power of the common sense, thus ignites the light of justice for Doan Van Vuon.
---

Doan Van Vuon, born in 1963, is a farmer in Tien Lang district, Hai Phong province. After serving in the army between 1981 and 1984, then learning at the Hanoi University of Agriculture, he started his own farming business in 1993 by leasing wetlands from the local authorities for fish and shrimp raising within a 14-year period. He also reclaimed land from the sea during his lease.

In 1997 he requested for more land lease, and the request was approved, giving him right to use land for 14 years as from October 4, 1993, while under the 1993 Land Law, tenants are granted “land use right” for a period of 20 years.

In 2007 and 2008, the local People’s Committee issued decisions to evict Vuon from his land. He certainly declined to vacate the fish farms, and this was the prologue for a tragedy. The Tien Lang shootout broke out when Doan Van Vuon’s brothers, using improvised mines and muskets, resisted an eviction by local policemen and soldiers. No one was hurt, but Vuon’s houses were destroyed and leveled to the ground. Vuon and his brother Quy were later detained and charged with “attempted murder”, a very serious crime under the Penal Code of Vietnam.

Local people said they are grateful to Vuon for his reclamation of land, which helped build their coastal community, while his 9-year-old daughter drowned in an accident in 2001. At the same time, Colonel Do Huu Ca, top leader of the local police force, said in an interview with the VnMedia news site that the eviction was “a fine fight” that is “worthy of being brought to book.”

I told our comrades (…) that this was not a military exercise, but there were actually many things to learn. [The eviction] was very interesting with the spectacular combination between local authorities, the army, the border police, so there is nothing to complain.”

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

Góp ý về Hiến pháp


Góp ý về Hiến pháp

(tọa đàm ngày 15/03/2013 tại Viện Nghiên cứu Lập pháp,
về các vấn đề kinh tế xã hội trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992)
Hoàng Tụy
Tôi rất hoan nghênh chủ trương của Quốc hội kéo dài thời gian lấy ý kiến nhân dân về Hiến pháp đến hết tháng 9, đồng thời tổ chức tọa đàm rộng rãi trong giới trí thức xung quanh những vấn đề lớn đang có nhiều tranh cãi.
Song sẽ là tốt hơn nếu trước đó không có những quy kết tùy tiện đối với những ý kiến trái chiều, dù những ý kiến này thật ra rất xây dựng và xuất phát từ những công dân chỉ có một tội là thiết tha với đất nước và ngày đêm trăn trở vì sự nghiệp độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân – hay theo cách nói sau này: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh – một sự nghiệp mà vì nó biết bao người con ưu tú của đất nước đã ngã xuống và cả dân tộc đã chịu đựng biết bao hy sinh, nhọc nhằn trong mấy chục năm chiến tranh tàn khốc mà đến nay phần lớn mục tiêu vẫn đang còn ở phía trước. Sẽ là tôt hơn nữa nếu Ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa vội tuyên bố bảo lưu tất cả những điểm chính, vì như thế khác nào thừa nhận việc hô hào nhân dân góp ý chỉ là hình thức, và bao nhiêu thời gian, của cải, công sức, của dân bỏ ra để góp ý chỉ là một sự lãng phí vô trách nhiệm.
Trước tình hình đó, những ai trăn trở về vận nước nguy vong làm sao không đắn đo suy nghĩ được. Tôi nghĩ vào lúc này, khi kinh tế lụn bại, xã hội nhiễu nhương, tham nhũng hoành hành, bờ cõi biên cương hải đảo đang bị uy hiếp nghiêm trọng, thì mọi người tử tế nên dẹp mọi suy tính cá nhân, cùng nhau vận dụng trí tuệ suy nghĩ tìm một lối ra ít đau đớn nhất cho dân tộc thay vì cố thủ trong những thành kiến, định kiến đã lỗi thời.

Trên tinh thần đó, tôi xin phát biểu thẳng thắn một số ý kiến về đề tài tọa đàm hôm nay, chủ yếu tập trung về hai Điều 54 và 57 trong bản Dự thảo.
Nói vắn tắt, đây thực chất cũng chỉ là những ý kiến đã được trình bày cô đọng nhưng khá đầy đủ trong bản Kiến nghị bảy điểm về sửa đổi Hiến pháp 1992 của 72 công dân.
1. Điều 54, Mục 1 ghi: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”. Xin đề nghị bỏ hẳn cụm từ “định hướng xã hội chủ nghĩa” vì nội hàm rất mù mờ mà theo kinh nghiệm thực tế nhiều năm qua chỉ là cái cớ để hạn chế, cản trở, thu hẹp thị trường, khiến nhiều nước đến nay vẫn chưa chịu công nhận kinh tế thị trường cho ta. Có lẽ vì cái định hướng xã hội chủ nghĩa đó nên mới cố bám chặt cái chủ trương lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo, dốc hết vốn liếng tiền của, tài nguyên trí lực vào đó, chẳng những không có hiệu quả, mà còn cản trở sự phát triển lành mạnh của đất nước, làm cho đất nước kiệt quệ, chồng chất nợ nần không biết bao giờ mới trả hết được, lại gây ra biết bao tệ nạn trong xã hội. Có thể nói mọi tai ương bắt nguồn từ cái nhận thức sai lầm về chủ nghĩa xã hội theo kiểu giáo điều Liên Xô cũ. Giờ đây bản Dự thảo đã mạnh dạn từ bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đó là một bước tiến đáng kể, thế thì còn lý do gì bám giữ cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” cho rắc rối.
Lần lại lịch sử có thể thấy rằng trước đây, theo lý luận chủ nghĩa xã hội của Liên Xô cũ (cũng là lý luận chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam lúc đó), kinh tế xã hội chủ nghĩa là kinh tế kế hoạch hóa tập trung, không chấp nhận cơ chế thị trường. Cho nên năm 1968 khi nhà lãnh đạo Tiệp Khắc Dubcek chủ trương sử dụng cơ chế thị trường trong chủ nghĩa xã hội thì lý thuyết “chủ nghĩa xã hội thị trường” ấy của Dubcek đã ngay lập tức bị Liên Xô và cả phe xã hội chủ nghĩa, gồm cả Việt Nam, lên án là lý thuyết phản động nguy hiểm. Đến mức để cứu chủ nghĩa xã hội ở Tiệp Khắc, Liên xô đã đưa quân đội vào Tiệp Khắc lật đổ Dubcek, và cuộc can thiệp quân sự tàn bạo ấy đã được Việt Nam và cả phe xã hội chủ nghĩa lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ. Thế mà chưa đầy hai mươi năm sau đó, để vượt qua khủng hoảng kinh tế xã hội giữa thập kỷ 80 thế kỷ trước, chúng ta đã chấp nhận chính cái kinh tế thị trường trước đây đã từng bị phê phán kịch liệt và, như để tự trấn an, cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” được gán thêm vào, tương tự như cái tên chủ nghĩa xã hội thị trường của Dubcek.
Qua đó thấy rõ ngay trong nội bộ Đảng và các nhà cầm quyền nhận thức về chủ nghĩa xã hội cũng đã thay đổi ngược hẳn lại, ngay ở những nội dung cơ bản. Gì thì gì, thực tiễn chứ không phải giáo điều mới có thể có tiếng nói quyết định cuối cùng cho chính sách và hành động của một đảng thật sự vì dân.
Cũng có người cho rằng cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” là để hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường. Thật ra kinh tế thị trường chẳng có mặt trái nào cả, những tiêu cực phát sinh chẳng qua là do hiểu và thực hiện không đúng kinh tế thị trường. Một xã hội muốn phát triển lành mạnh, bền vững, thì cùng với Nhà nước pháp quyền, và kinh tế thị trường, còn rất cần một nhân tố nữa là xã hội dân sự. Chính cái xã hội dân sự này giúp điều chỉnh những lệch lạc tự phát khi vận hành bộ máy nhà nước và kinh tế thị trường. Một khi xã hội dân sự còn rất yếu kém, chẳng những không được khuyến khích phát triển, trái lại còn bị xem là kế sách của các thế lực thù địch đang âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” thì bộ máy nhà nước dễ dàng xa dân, quên dân, đối lập với dân, và kinh tế thị trường cũng dễ dàng bị méo mó, xuyên tạc, nhất là về mặt đạo đức xã hội. Cho nên bàn về kinh tế lại không thể không quay về quyền con người và quyền công dân là những quyền đương nhiên phải được hiến định minh bạch và triệt để tôn trọng thì mới có thể có xã hội dân sự phát triển.
2. Điều 57 ghi: “Đất đai, …, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật”. Dù muốn biện minh cách gì cũng không thể phủ nhận đây là điểm mắc mứu quan trọng đã gây nên biết bao thảm cảnh đau lòng những năm qua, đẩy người dân hiền lành đến chỗ có lúc không chịu nổi, phải đứng lên chống lại chính quyền địa phương để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình bỗng nhiên bị xâm phạm, bị tước đoạt không phải vì lợi ích của đất nước mà chẳng qua vì lòng tham ích kỷ của quan chức các cấp, nhân danh Nhà nước bắt tay với nhiều tư nhân, doanh nghiệp để trục lợi, hại dân. Đã có quá nhiều ý kiến đề nghị nên thay đổi quy định này, dựa trên những cơ sở pháp lý vững chắc. Bản Kiến nghị của 72 công dân cũng đã nói rõ vì sao quy định này là một trong những điều bất công tệ hại nhất đã làm giảm nghiêm trọng niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Vì vậy có lẽ không cần thiết phải nói thêm gì nữa về tác hại của một chủ trương mà thực tế đau buồn hai mươi năm qua đã hoàn toàn bác bỏ.
Tuy nhiên giở lại lịch sử có thể soi sáng thêm bản chất vấn đề. Quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân xuất hiện đầu tiên trong Hiến pháp 1980 chỉ là sao chép theo Hiến pháp Liên Xô cũ và do đó được cho là dựa theo lý luận chính thống xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồi đó, sau hàng loạt biểu hiện tráo trở của Trung Quốc và nhất là sau cuộc chiến xâm lược của họ năm 1979, Liên Xô đối với Việt Nam trở thành nhà nước xã hội chủ nghĩa mẫu mực. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa đó, toàn thể nông thôn đã hợp tác hóa từ lâu, đất đai thuộc sở hữu toàn dân là đương nhiên. Miền Bắc nước ta khi ấy cũng đã hợp tác hóa rồi, Miền Nam thì đang trên con đường hợp tác hóa, theo khẩu hiệu cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hộị. Trong khung cảnh quốc tế và nội tình đó, sự xuất hiện quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân trong Hiến pháp cũng là dễ hiểu. Không ai, kể cả những người cấp tiến trong giới cầm quyền lúc bấy giờ, có thể tiên lượng được hết những hệ lụy gì của quan điểm đó khi tình hình thay đổi.
Những hệ lụy này chỉ mới dần dần hiện rõ và trở nên ngày càng trầm trọng trong tiến trình đổi mới. Một mặt, hợp tác xã ở Miền Bắc dần dần tan rã, còn ở Miền Nam không còn ai dám nghĩ đến hợp tác hóa như ở Miền Bắc trước kia nữa. Mặt khác, đội ngũ cán bộ quan chức ngày càng tha hóa, biến chất, một bộ phận không nhỏ mà ngày càng lớn dần trở nên hư hỏng hoàn toàn. Trong tình hình mới đó, những quy định luật pháp lỏng lẻo đi liền với quyền sở hữu toàn dân về đất đai trở thành chỗ dựa pháp lý lý tưởng để các quan chức mọi cấp ra sức trục lợi trên lưng nông dân nghèo khổ. Hệ lụy tất yếu là đấu tranh, khiếu kiện ngày càng lan rộng, ban đầu tự phát càng về sau càng có ý thức. Hết Tiên Lãng đến Văn Giang và nhiều nơi khác, mà đó chỉ mới là phần nổi của tảng băng chìm. Rõ ràng quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân trước đây có vẻ đương nhiên trong chế độ toàn nông thôn hợp tác hóa nay đã trở nên mâu thuẫn gay gắt với những đổi mới ở nông thôn. Nó hoàn toàn không phù hợp nữa, chí ít cũng không hợp lòng dân ở giai đoạn này và trong tình hình sa sút đạo đức nghiêm trọng của cả hệ thống chính trị rất dễ dàng bị lợi dụng để đè nén, áp bức, nhũng nhiễu dân mà vẫn không bị pháp luật trừng trị.
Bài học rút ra từ những chuyện bàn ở trên là không có, không bao giờ có thể có, một lý thuyết hoàn thiện về chủ nghĩa xã hội để rồi cứ thế mãi mãi áp dụng thành công. Mục tiêu phấn đấu của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả nhất của một đảng thật sự vì dân vì nước chỉ có thể là: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, theo những tiêu chí phổ quát của nhân loại đương thời. Chỉ có trên quan điểm đó mới có thể có một Hiến pháp quy tụ, đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân, thực hiện hòa giải dân tộc, vượt qua khủng hoảng và tình hình nguy cấp hiện tại để tiến lên một giai đoạn phát triển mới đầy hứa hẹn của đất nước.
H. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
http://boxitvn.blogspot.com/2013/03/gop-y-ve-hien-phap.html#more