Thứ Hai, 28 tháng 11, 2011

Thư của một nông dân gởi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Kính gởi: Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng
Tôi tên là Huỳnh Kim Hải, một nông dân làm lúa ở tỉnh Đồng Tháp thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long, có viết một số bài báo để đòi hỏi quyền lợi của nông dân với bút danh Hoàng Kim ( Đồng Tháp).
Đầu thư, tôi kính chúc Tổng Bí thư và gia đình được nhiều sức khỏe.
Kính thưa Tổng Bí thư,
Thời Báo Kinh Tế Việt Nam Online cho biết trong buổi làm việc hôm 13/9 tại Trung ương Hội nông dân ViệtNam: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề nghị các đại biểu làm rõ thêm nhiều vấn đề. Trong đó có chất lượng, tình hình công ăn việc làm, đời sống vật chất của nông dân; nhận thức, giác ngộ chính trị, ý thức làm chủ của nông dân ra sao, hiện nay nông dân đang có tâm tư, nguyện vọng, đòi hỏi gì đối với Đảng, Nhà nước?”.
Nông dân chúng tôi rất vui mừng, vì Tổng Bí thư quan tâm đến sản xuất, đến đời sống, và tâm tư nguyện vọng của nông dân chúng tôi.
Thế nhưng, đọc Kiến nghị của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam với Đảng, Nhà nước đăng trên báo Dân Việt Online, và một số báo khác, nông dân chúng tôi nhận thấy: ông Nguyễn Quốc Cường Chủ tịch Hội Nông dân, nói những điều mà Tổng Bí thư muốn nghe, chứ không phải những điều mà Tổng Bí thư cần phải biết.
Thưa Tổng Bí thư: nông dân chúng tôi hiện không có chỗ để nói, vì hội nông dân không phải của nông dân, vậy nếu muốn biết tình cảnh của nông dân xin Tổng Bí thư hãy đến cùng nông dân chúng tôi, xin hãy thân hành mà đến với nông dân để biết sự thật, còn nếu hỏi Hội Nông dân, hay những nông dân mà hội này giới thiệu thì Tổng Bí thư sẽ không bao giờ biết sự thật của nông dân
Vì vậy, tôi mạo muội viết bức thư này gởi đến Tổng Bí thư, như là một sự phản ảnh, báo cáo từ thực tế, như là một sự giải bài của nông dân với lãnh đạo, với mong muốn: nói cho Tổng Bí thư hiểu rỏ về tình cảnh của nông dân hiện nay;  trong  mong ước:  từ thực tế mà nông dân chúng tôi trình bài, Tổng Bí thư hoàn chỉnh Nghị Quyết Tam Nông để giúp nông dân thoát nghèo.
Ông bà chúng ta nói rằng: “ sự thật mất lòng”. Sự thật thường khó nghe. Vì thế, xin Tổng Bí thư tha lỗi vì những sự thật đầy bức xúc mà tôi trình ra đây.
Kính thưa Tổng Bí thư,
Tôi xin được trình lên Tổng Bí thư một thực trạng đáng buồn trong việc sản xuất và tiêu thụ lúa gạo: Chính phủ đã bỏ rơi nông dân, nên nông dân đang “tự bơi” trong một nền nông nghiệp tự phát, dưới sự bóc lột của các nhóm lợi ích là các hiệp hội ngành hàng, còn Hội Nông dân không phải của nông dân nên không quan tâm bảo vệ quyền lợi cho nông dân. Tôi xin được trình bày cụ thể:
Chính phủ bỏ rơi nông dân.
Là một người làm lúa trên 20 năm, tôi xin được thưa với Tổng Bí thư rằng: từ trước đến nay, nông dân chúng tôi hầu như không nhận được những chính sách phát triển lúa gạo có hiệu quả nào từ Chính phủ, những chính sách của Chính phủ chỉ dừng lại ở mức độ xóa đói giảm nghèo.
Chính phủ nói nhiều đến việc cơ giới hóa sản xuất lúa từ 20 năm nay, nhưng Chính phủ không hề có chính sách chế tạo máy móc để cơ giới hóa:
Về khâu làm đất nông dân chúng tôi gian nan trong thời gian dài vì thiếu sức kéo, đến khi máy kéo loại nhỏ, đã qua sữ dụng, giá rẻ của Nhật Bản được nhập qua, phù hợp với túi tiền của nông dân, chúng tôi mới cơ giới hóa được khâu làm đất.
Về việc cơ giới hóa khâu thu hoạch cũng vậy, Chính phủ đề ra việc cơ giới hóa khâu thu hoạch, nhưng không có kế hoạch chế tạo máy gặt đập liên hợp, khi hảng Kubota qua Việt Nam bán máy gặt đập liên hợp vài năm gần đây, việc cơ giới hóa khâu thu hoạch mới phát triển mạnh mẻ.
Nếu Tổng Bí thư hỏi ông Bộ trưởng Bộ Công thương rằng Việt Nam ta đang xuất khẩu hằng năm loại gạo gì số lượng và chủng loại ra sao, tôi dám chắc ông Bộ trưởng Bộ Công thương không trả lời được, vì hiện nay, Hiệp hội lương thực Việt Nam mua gạo từ thương lái, rồi trộn lẩn các loại gạo với nhau, để xuất với tên gọi gạo trắng hạt dài, phân biệt bởi phần trăm tấm.
Nếu Tổng Bí thư hỏi ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc qui hoạch cơ cấu giống lúa cho nông dân, ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng sẽ không trả lời được, vì Bộ Nông nghiệp có biết chủng loại và số lượng gạo xuất khẩu hằng năm ra sao mà lập kế hoạch cơ cấu giống, với lại, Bộ Nông nghiệp cũng chẳng biết giá từng loại lúa thay đổi ra sao vào vụ thu hoạch sắp tới, thì làm sao mà dám quy hoạch cơ cấu giống, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ khuyến cáo nông dân cách chọn giống trên báo, trên đài còn nông dân nghe hay không tùy ý.
Không những không có chính sách phát triển sản xuất, việc bán lúa gạo giúp cho nông dân Chính phủ cũng không làm được.
Chính phủ giao toàn quyền mua bán lúa gạo cho Hiệp hội lương thực Việt Nam là một hiệp hội ngành hàng hoạt động vì lợi nhuận, thế nên, Hiệp hội lương thực Việt Nam bán gạo xuất khẩu với giá rẻ nhất thế giới, rồi quay vào mua lúa tạm trữ của nông dân với giá rẻ như lấy không.
Ngày 4/11/2010 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị định số 109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, có hiệu lực từ ngày 1/1/2011. Nông dân chúng tôi xin thưa với Tổng Bí thư rằng đây là một Nghị định quan liêu và vô trách nhiệm đối với quyền lợi của nông dân, vì Nghị định không hề quan tâm đến giá bán gạo xuất khẩu và giá thu mua lúa, tức là không quan tâm đến thu nhập của nông dân.
Nghị định quan liêu vô trách nhiệm này có hiệu lực từ ngày 1/1/2011, vậy mà mãi cho đến ngày 17/6/2011 Bộ Tài chính mới ban hàng Thông tư số 89/2011/ TT-BTC về cách tính giá sàn xuất khẩu gạo, nhưng phải tới 1/8/2011 mới có hiệu lực. Như vậy từ ngày 1/1/2011 đến ngày 1/8/2011 giá sàn xuất khẩu gạo do ai tính và tính ra sao? Từ ngày 1/8 đến nay cũng không thấy ai công bố giá sàn gạo xuất khẩu cả.
Thông tư số 89/2011/TT-BTC là hổn mang của những ẩn số không đầu không đuôi, tôi dám cam đoan với Tổng Bí thư là chẳng thể dựa vào 2 cách tính trong Thông tư này để tính được giá sàn xuất khẩu gạo.
Không những không giúp được nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, Chính phủ lại bắt nông dân chúng tôi dùng thu nhập còm cỏi của mình để chống lạm phát cho Chính phủ, bằng cách khống chế giá lúa gạo để chống lạm phát.
Việt Nam và Thái Lan xuất khẩu trên 50% lượng gạo thế giới, Thái Lan từ nhiều năm nay, nhiều lần đề nghị hợp tác với Việt Nam để ấn định giá bán gạo trên thị trường thế giới, vậy mà, Chính phủ Việt Nam luôn từ chối. Năm nay, Chính phủ Thái Lan nâng mức múa lúa cho nông dân Thái Lan lên khoảng 500 đô la Mỹ/ tấn, vậy mà Việt Nam năm 2011 này vẫn bán gạo với giá khoảng 500 đô la Mỹ/ tấn.
Tôi xin trình lên Tổng Bí thư phát biểu của ông Nguyễn Thành Biên Thứ trưởng Bộ Công thương, kiêm Tổ trưởng Tổ xuất khẩu gạo của Chính phủ, để Tổng Bí thư hiểu vì sao Chính phủ Việt Nam không hợp tác với Chính phủ Thái Lan ấn định giá bán gạo xuất khẩu: “ Trong những tháng cuối năm, mục tiêu kiềm chế lạm phát là quan trọng nên điều hành lúa gạo phải hướng tới mục tiêu này, không thể chạy theo mục tiêu đảm bảo có lãi cao cho nông dân”.
Nông dân đang tự bơi.
Bị Chính phủ bỏ rơi, nên nông dân chúng tôi phải “tự bơi” để sản xuất, mà “ tự bơi” thì cực khổ, thiệt hại kể làm sao cho xiết!
Trình độ học vấn cấp 1, cấp 2 mà phải lao vào nghiên cứu cải tiến máy móc để phục vụ sản xuất: nông dân làm máy cấy, nông dân làm máy gặt đập liên hợp, nông dân làm máy phun thuốc trừ sâu, nông dân làm máy tách vỏ dừa, nông dân làm máy tách vỏ đậu phọng… thì thất bại ê chề mà thành công hạn hữu.
Thế nhưng, khi thành công cũng không được lợi ích gì.
Tôi xin được lấy việc chế tạo máy gặt đập liên hợp làm thí dụ: phải có tài năng và dũng cảm chấp nhận hao công, tốn của nông dân mới có thể làm ra được máy gặt đập liên hợp, nhưng do thực hiện thủ công với vật liệu tự tìm nên hay hỏng hóc trong quá trình sữ dụng. Thế rồi, hảng Kubota vào ViệtNamsản xuất máy gặt đập liên hợp, máy được sản xuất hàng loạt, vật liệu có độ bền cao, sữ dụng ít hỏng hóc, dể mua phụ tùng, nên dù giá cao vẫn chiếm lĩnh thị trường.
Từng nông dân sản xuất thủ công, cạnh tranh với hảng Kubota nổi tiếng, khác nào trứng chọi với đá. Và như vậy công sức của nông dân chế tạo máy gặt đập liên hợp dù thành công, đã đổ xuống sông xuống biển, vì không thể cạnh tranh nổi với máy của hảng Kubota.
Thưa Tổng Bí thư. Vào năm 2004, Bộ Nông nghiệp và hợp tác xã Thái Lan đã soạn thảo chiến lược lúa gạo giai đoạn 2004- 2008. Đây là chiến lược nhằm hoạch định đường lối nâng cao hiệu quả phát triển lúa gạo của Thái Lan trong những năm trước mắt. Bản dự thảo gồm 5 lĩnh vực: 1/ Nâng cao năng suất; 2/ Nâng cao giá trị; 3/ Tiếp thị quy mô toàn cầu; 4/ Đảm bảo đời sống người lao động và tránh rủi ro; 5/ Nâng cao hiệu quả dịch vụ.
Còn ở Việt Nam, từ trước đến nay: trồng giống gì, và bán ra sao là tự nông dân.
Do Bộ Công thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn không biết mỗi năm bán loại lúa gì số lượng ra sao, nên nông dân chúng tôi đang phải tự chọn giống lúa theo kiểu hên xui để gieo sạ. Tôi xin lấy thí dụ: lúa thơm Jasmin 85 có năm hơn lúa ngang IR 50404 đến 1.500 đồng/ kg, nhưng có năm chỉ hơn 200 đồng/ kg.
Cho nên  nông dân hiện  đang chọn giống gì, trồng cây gì: cũng chết!
Sản xuất đã tự bơi còn việc tiêu thụ sản phẩm lại thê thảm hơn. Nông dân làm ra lúa gạo, nhưng không có quyền ấn định giá mua bán lúa gạo.
Hiệp hội lương thực Việt Nam được Chính phủ giao độc quyền mua bán lúa gạo, lại luôn bán gạo xuất khẩu với giá rẻ nhất thế giới, rồi quay trở vào trong nước bài kế mua lúa tạm trữ, để ăn cướp hết lợi nhuận của nông dân.
Thưa Tổng Bí thư. Xuất khẩu gạo mà không có kho chứa lúa gạo thì làm sao điều tiết được quá trình xuất khẩu, làm sao giữ lúa gạo chờ giá, làm sao không bị khách hàng ép giá. Vậy mà, dù xuất khẩu gạo trên 20 năm nhưng Việt Nam không xây dựng đủ kho chứa lúa.
Thiếu kho chứa lúa, nhưng sì lô chứa lúa gạo hiện đại được xây dựng ở Phường 11 thị xã Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp từ khi xây dựng lại bị bỏ hoang, đến hôm nay xi lô chứa lúa đã biến thành Xí nghiệp sản xuất thức ăn thủy sản Sông Tiền.
Xi lô hiện đại ỏ Đồng Tháp đã biến thành xí nghiệp thức ăn thủy sản.
Chính phủ các nước nhập khẩu gạo (điển hình làPhilippines) trực tiếp điều hành việc nhập khẩu, với mục đích hạ giá gạo nhập khẩu. Chính phủ các nước xuất khẩu gạo ( điển hình là Thái Lan) cũng trực tiếp điều hành việc xuất khẩu mục đích là nâng cao giá bán gạo, còn ở Việt Nam, Chính phủ giao toàn quyền xuất khẩu gạo cho Hiệp hội lương thực Việt Nam, thế nhưng, Hiệp hội lương thực Việt Nam do thu lợi nhuận đầu tấn nên không quan tâm gì đến giá bán gạo xuất khẩu, như vậy, chẳng khác nào Chính phủ Việt Nam đang bắt từng nông dân phải cạnh tranh trong xuất khẩu gạo với Chính phủ các nước.
Là nước xuất khẩu gạo mà Chính phủ chẳng có cơ quan nào thực hiện việc phân tích và dự báo giá lúa gạo thế giới, chẳng có kho bải để trữ lúa gạo chờ giá, Chính phủ giao hết việc mua bán lúa gạo cho Hiệp hội Lương thực Việt Nam, mà Hiệp hội Lương thực Việt Nam chỉ biết bán lúa gạo theo kiểu sang tay, chẳng biết phân tích dự, báo giá gì cả.
Hay nói một cách hình tượng hơn: với cơ chế xuất khẩu gạo hiện nay, Chính phủ ViệtNamđang xô nông dân ViệtNamra biển lớn trên xuồng ba lá.
Nền nông nghiệp Việt Nam đang tự phát.
Chúng ta có một nền nông nghiệp, mà trong đó Chính phủ không có các chính sách phát triển nông nghiệp, Chính phủ giao cho các hiệp hội ngành hàng độc quyền mua bán lúa gạo, nông sản của nông dân, đổi lại, các hiệp hội ngành hàng khống chế giá lúa gạo, nông sản để giúp Chính phủ kiềm chế lạm phát.
Trong nền nông nghiệp ViệtNamhiện nay, các hiệp hội ngành hàng tước đoạt hết lợi nhuận của nông dân.
Được độc quyền các hiệp hội ngành hàng xuất khẩu nông sản ở dạng thô để ăn chênh lệch đầu tấn, mà không hề quan tâm đến việc nâng cao giá trị nông sản, không xây dựng các nhà máy chế biến, không xây dựng kho bải, không tạo thương hiệu cho nông sản.
Việt Nam có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới như: gạo, cà phê, cao su, tiêu, điều… thế nhưng trên 90% hàng nông sản xuất khẩu ở dạng thô, giá rất rẻ so với giá mặt hàng cùng loại của nước khác.
Điển hình như gạo, Việt Nam xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, thời gian xuất khẩu trên 20 năm, nhưng luôn bán gạo với giá rẻ nhất thế giới, thường xuyên rẻ hơn gạo cùng loại của Thái Lan Từ 100 – 150 đô la Mỹ/ tấn. Vậy mà, Chính phủ chưa hề đề ra bất cứ chính sách nào để tăng giá trị hạt gạo.
Trồng cây gì, nuôi con gì điều do nông dân tự ý chọn lựa, bán được hay không là do hên xui, may nhờ rủi chịu, chứ nền nông nghiệp không phát triển dựa trên kế hoạch nào cả, chính phủ không đề ra được bất cứ chính sách phát triển nông nghiệp nào cả.
Khi có dịch bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá trên lúa, các bộ ngành và các nhà khoa học điều đồng loạt khuyến cáo không nên trồng lúa vụ 3 để cắt dịch bệnh. Thế nhưng hiện nay, diện tích lúa vụ 3 đã tăng lên khoảng 600.000 ha.
Tại sao lại đắp đê để độc canh 3 vụ lúa bấp bênh? Tại sao không thực hiện 2 vụ lúa 1 vụ màu?
Trồng không biết nên trồng giống gì, cây gì. Nuôi không biết nên nuôi con gì. Bán cũng không biết sẽ bán cho ai, giá cả ra sao. Đó là thực trạng của nền nông nghiệp ViệtNam.
Các hiệp hội ngành hàng tước đoạt hết lợi nhuận của nông dân.

Chính phủ phát triển nông nghiệp bằng cách dựa hẳn vào các hiệp hội ngành hàng, bắt các hiệp hội ngành hàng làm thay nhiệm vụ cùa Chính phủ, đổi lại, Chính phủ cho phép hiệp hội ngành hàng độc quyền mua bán các sản phẩm nông nghiệp, vì thế, lợi dụng sự độc quyền này, các hiệp hội ngành hàng tước đoạt hết lợi nhuận của nông dân.
Tôi xin được phép trình lên Tổng Bí thư cách thức buôn bán lúa gạo của Hiệp hội Lương thực ViệtNam. ( Hiệp hội Cà phê Ca cao hoạt động rất giống với Hiệp hội Lương thực ViệtNam)
Hiệp hội lương thực ViệtNamluôn bán gạo với giá rẻ nhất thế giới:
Báo Tuổi Trẻ Online cho biết: “Trong vòng 5 năm 2001-2005 “giá của chúng ta chỉ bằng gần 80% giá bình quân thế giới (220USD/tấn). Đó là giá bán “bèo” nhất trong số 5 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới (xét theo khối lượng) theo thứ tự là Thái Lan, Ấn Độ, Việt Nam, Pakistan”.
Năm 2006, trong một bài trả lời phỏng vấn trên báo VnExpress, ông Trương Thanh Phong, Tổng giám đốc công ty Lương thực miền Nam kiêm Chủ tịch VFA, cho biết: “Chỉ trong một thời gian ngắn từ mức giá hơn 260 USD/tấn, loại gạo 5 % tấm liên tục rớt giá và hiện được doanh nghiệp ký bán với giá chỉ 242 – 245 USD/tấn. trong khi giá thành loại gạo này lên đến 248 USD/tấn.”
Năm 2008, ngừng xuất khẩu gạo vì lý do an ninh lương thực, giá gạo xuất khẩu giảm, theo các chuyên gia nông dân thiệt khoảng nữa tỷ đô la Mỹ.
Ngày 21.8.2009 báo Lao Động Online cho biết: “Nghịch lý ở chỗ “làm chủ” thị trường gạo, nhưng hiện giá gạo của ta vẫn thấp nhất thế giới…”.
Bán gạo giá đã rẻ nhất thế giới, nhưng không mua lúa cho nông dân từ giá bán gạo này, Hiệp hội Lương thực Việt Nam bài mưu mua lúa tạm trữ, để ăn cướp hết lợi nhuận của nông dân:
Năm 2008 Hiệp hội Lương thực ViệtNambán gạo xuất khẩu giá qui ra giá lúa 6.432 đồng/ kg, mua lúa nông dân với giá 4.000 đồng/ kg. Hiệp hội lời 2.432 đồng/kg, nông dân bán lúa hòa vốn.
Năm 2009, bán gạo xuất khẩu qui lúa giá 6.362 đồng/ kg, mua lúa của nông dân với giá 4.000 đồng/ kg. Hiệp hội lời 2.362 đồng/ kg, nông dân hòa vốn.
Năm 2010, Hiệp hội Lương thực Việt Nam mua lúa tạm trữ cả hai vụ đông xuân và hè thu với giá vẫn 4.000 đồng/ kg, nhưng bán gạo với giá qui lúa 5.365 đồng/ kg, cả năm này, nông dân lời không đủ sống.
Thật là đau xót khi thưa với Tổng Bí thư rằng: chỉ cần Chính phủ lãnh đạo việc mua bán lúa gạo hiệu quả thì từ năm 2008 đến nay, nông dân luôn bán lúa với giá khoảng 6.000 đồng/ kg chứ không phải trồi sụt ở mức 4.000 đồng/ kg như hiện nay.
Cùng là mặt hàng bình ổn nhưng khi phân bón tăng giá Chính phủ chẳng hề bình ổn, Hiệp hội phân bón muốn tăng giá bao nhiêu thì tăng.
Thuốc bảo vệ thực vật cũng vậy các công ty, xí nghiệp muốn tăng bao nhiêu thì tăng Chính phủ chẳng kiểm tra kiểm soát gì cả.
Hội Nông dân là của Nhà nước nên chẳng quan tâm gì đến nông dân.
Mua bán lúa gạo Hiệp hội Lương thực Việt Nam độc quyền, có 21 vị ủy viên ấn định giá lúa gạo. Mua bán cà phê có Hiệp hội Cà phê Ca cao độc quyền, có 20 vị trong câu lạc bộ 20 ấn định giá mua bán cà phê.
Hội Nông dân đại diện cho tất cả nông dân trồng nhiều loại cây và nuôi nhiều loại con, thế nhưng Hội Nông dân là của Nhà nước chứ chẳng phải của nông dân.
Thực tế hiện nay, cơ quan làm việc của Hội Nông dân do Nhà nước cấp, nhân sự do Nhà nước bổ nhiệm, tiền lương do Nhà nước phát, công việc do Nhà nước phân công, cho nên, Hội Nông dân chỉ làm những việc có tính phong trào, mà không quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ quyền lợi của nông dân trong kinh tế thị trường.
Ở địa phương tôi, năm 1998, UBND xã đến tận nhà phát cho một số nông dân thẻ hội viên Hội Nông dân, rồi từ đó đến nay không hề họp hội gì cả, bản thân tôi đã 20 năm làm lúa mà không biết mình có phải là hội viên Hội Nông dân hay không.
Do lãnh đạo hội nông dân là nhân viên của Nhà nước, nên Chính phủ làm sao họ để vậy, không bao giờ dám có ý kiến bảo vệ quyền lợi cho nông dân: Chính phủ khống chế giá lúa gạo để chống lạm phát lãnh đạo Hội nông dân nghe theo, Hiệp hội Lương thực Việt Nam bài ra việc mua lúa tạm trữ để ăn cướp hết lợi nhuận của nông dân, Hội Nông dân làm thinh…
Trong kinh tế thị trường, Hội Nông dân không bảo vệ quyền lợi của nông dân thì ai sẽ bảo vệ quyền lợi cho nông dân? Hội Nông dân không phản ảnh tâm tư nguyện vọng của nông dân lên Đảng và Nhà nước, thì làm sao Đảng và Nhà nước biết tâm tư nguyện vọng của nông dân?
Thưa Tổng Bí thư. Tôi đã trình lên Tổng Bí thư thực trạng bi đát: nông dân đang càng ngày càng nghèo, và sự tự phát của nền nông nghiệp với biểu hiện xuất khẩu thô nông sản.
Với mong ước  Tổng Bí thư thay mặt Đảng và Nhà nước thực hiện thành công Nghị Quyết Tam Nông, tôi xin được đề đạt lên Tổng Bí thư tâm tư, nguyện vọng và những yêu cầu của nông dân đối với Đảng và Nhà nước.
Xin Tổng Bí thư thay đổi tư duy của Chính phủ.
Xin Tổng Bí thư thay đổi tư duy của Chính phủ, làm cho Chính phủ thực sự quan tâm đến quyền lợi của nông dân, đến sự phát triển của nền nông nghiệp, đến việc thực hiện Nghị Quyết Tam Nông.
Chính phủ hiện nay có tư duy khống chế giá lúa gạo để chống lạm phát ( khống chế cả giá lương thực, thực phẩm), vì thế, Chính phủ để cho Hiệp hội lương thực Việt Nam bán gạo với giá rẻ nhất thế giới, và mua lúa của nông dân với giá thấp như lấy không. Xin Tổng Bí thư xóa bỏ tư duy khống chế giá lúa gạo của Chính phủ.
Thái Lan đang thực hiện chính sách mua lúa giá cao cho nông dân, nhưng vẫn đảm bảo cho người ăn gạo, vẫn đảm bảo chống lạm phát, chứ đâu có khống chế giá lúa gạo như Chính phủ Việt Nam.
Chính phủ có tư duy bao đồng trong việc đảm bảo an ninh lương thực cho thế giới: sang Campuchia rồi sang châu Phi lập liên doanh trồng lúa, để dạy các nước trồng lúa, mà không nghĩ đến việc sẽ thu hẹp thị trường xuất khẩu gạo của nông dân và tạo thêm đối thủ cạnh tranh xuất khẩu gạo cho nông dân Việt Nam. Xin Tổng Bí thư nghiêm cấm mọi hoạt động lập liên doanh dạy nước ngoài làm lúa.
Xin Tổng Bí thư thay đổi cơ chế mua bán lúa gạo bất nhân, bất trí, và bất lương hiện nay.
Cơ chế mua bán lúa gạo hiện nay mà Chính phủ giao cho Hiệp hội Lương thực ViệtNamthực hiện: bất nhân vì làm cho nông dân càng ngày càng nghèo, bất trí vì bán gạo với giá rẻ nhất thế giới, bất lương vì ăn cướp hết lợi nhuận của nông dân. Xin Tổng Bí thư tháo ách bốc lột của Hiệp hội lương thực ViệtNamvới nông dân mà Chính phủ đang quàng lên cổ nông dân.
Điều kiện tiên quyết để xuất khẩu gạo thành công là phải có kho bải liên hợp với nhà máy xay lúa và máy sấy. Không có đủ kho bải chỉ nói thánh nói tướng cho vui chứ Chính phủ không thể lãnh đạo được xuất khẩu gạo.
Xin Tổng Bí thư trả lại Hội Nông dân cho nông dân.
Điều kiện tiên quyết để Hội Nông dân của nông dân là: lãnh đạo Hội Nông dân phải do nông dân bầu ra, lương do nông dân cấp phát.
Hội Nông dân phải là của nông dân mới bảo vệ được quyền lợi của nông dân trong kinh tế thị trường.
Lãnh đạo Hội Nông dân phải là nông dân hoặc những chuyên gia am tường về nông nghiệp có thiện ý với nông dân, có hai người thích hợp lãnh đạo hội nông dân đó là: Giáo sư Võ Tòng Xuân (đối ngoại) và Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT (đối nội).
Hiện nay, lãnh đạo Hội Nông dân do Chính phủ phân công, tiền lương do Chính phủ trả, cơ quan do Chính phủ cấp, thế nên Hội Nông dân là của Chính phủ chứ chẳng phải của nông dân.
Xin Tổng Bí thư trả Hội Nông dân lại cho nông dân, và giúp đở Hội nông dân của nông dân hoạt động hiệu quả trong cơ chế thị trường.
Cụ thể hơn, xin Tổng Bí thư giúp thành lập Hiệp hội của những người trồng lúa để bảo vệ quyền lợi cho người nông dân trồng lúa chúng tôi.
Xin Tổng Bí thư xóa bỏ việc độc quyền của các hiệp hội ngành hàng đối với lúa gạo và nông sản.
Hiệp hội Lương thực ViệtNamđộc quyền mua bán lúa gạo nên năm nào cũng ép giá, thắt hầu bóp cổ nông dân. Hiệp hội phân bón và các công ty thuốc bảo vệ thực vật năm nào cũng tăng giá sản phẩm để móc túi nông dân.
Nếu không xóa bỏ sự độc quyền ép giá của các hiệp hội này, nông dân chúng tôi sẽ không ngóc đầu lên nổi.
Xin Tổng Bí thư xóa bỏ độc quyền của các hiệp hội ngành hàng và có cơ chế kiểm tra, giám sát về giá đối với phân bón và thuốc bảo vệ thực vật.
Xin Tổng Bí thư ra lệnh tổng kiểm toán để biết lợi nhuận hàng năm của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, Hiệp hội Phân bón, và các công ty sản xuất thuốc bảo vệ thực vật, từ đó thu lại lợi nhuận bất chính mà các hiệp hội này đã tước đoạt của nông dân. ( như năm 2008 Hiệp hội Lương thực ViệtNambán lúa giá 6.432 đồng nhưng mua lúa của nông dân có 4.000 đồng/ kg).
Xin Tổng Bí thư xem xét hình mẫu mà Chính phủ Thái Lan lo cho nông dân Thái Lan. Xin Tổng Bí thư buộc Chính phủ ViệtNamphải trực tiếp điều hành mua bán lúa gạo vì quyền lợi của nông dân  như Chính phủ Thái Lan đang làm.
Xin Tổng Bí thư yêu cầu Chinh phủ đưa ra các chính sách phát triển nông nghiệp và xuất khẩu nông sản hiệu quả.
Việc sản xuất lúa nói riêng và nền nông nghiệp ViệtNamnói chung đang phát triển theo kiểu tự phát. Xin Tổng Bí thư yêu cầu Chính phủ đề ra chiến lược lúa gạo và những chính sách phát triển nông nghiệp hiệu quả.
Để phát triển nông nghiệp, Chính phủ phải có những chính sách cụ thể, chứ không thể dựa hoàn toàn vào các hiệp hội ngành hàng.
Các chính sách phát triển nông nghiệp dài hạn là cần thiết, nhưng phải có những chính sách ngắn hạn kèm theo, chính sách phát triển nông nghiệp mà đưa ra cho tới năm 2030, nhưng không biết năm 2012 làm gì, thì cũng như không, do chẳng ai kiểm tra được.
Xin Tổng Bí thư cho phép nông dân quyền sở hữu ruộng đất của mình
Hiện nay, quyền sữ dụng đất của nông dân chúng tôi cũng tương đương với quyền sở hữu: nông dân có quyền mua bán, trao đổi, cho tặng… Thế nhưng, đất đai vẫn thuộc sở hữu của Nhà nước.
Trước đây, ViệtNamchỉ kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, mọi tư liệu sản xuất đều là của nhà nước, nên đất đai thuộc sở hữu nhà nước là điều hợp lý.
Nông dân chúng tôi làm lúa, sau khi để lại đủ ăn cho đến thu hoạch vụ sau, số lúa dư bán cho nhà nước và nhận tem phiếu để mua các mặt hàng nhu yếu phẩm. Nông dân đi học, đi bệnh viện không tốn tiền.
Nay, mọi tư liệu sản xuất đã được tư hữu hóa, nông dân phải bỏ tiền ra mua mọi mặt hàng nhu yếu theo giá thị trường, đi học, đi bệnh viện phải tốn tiền, vậy giữ nguyên quy định đất đai thuộc sở hữu Nhà nước tức là không công bằng đối với nông dân.
Mọi thành phần kinh tế điều có quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, công nhân có quyền tư hữu xí nghiệp và nhà máy thông qua hình thức cổ phần, nhà tư bản được quyền tư hữu nhà máy và xí nghiệp, vậy tại sao nông dân không có quyền tư hữu về tư liệu sản xuất là ruộng đất của mình?
Mọi thành phần kinh tế điều là hữu sản, tại sao chỉ có nông dân vẩn là vô sản?
Nhà nước lớn sở hữu ruộng đất của nông dân chúng tôi, thì cũng không khác gì nông dân sở hữu, thế nhưng, Nhà nước nhỏ tức chính quyền cấp xã, huyện, tỉnh sở hữu ruộng đất của chúng tôi, chính là nguyên nhân sinh ra dân oan, dân khiếu kiện đông đúc hiện nay, vì nhà nước nhỏ rất khó thoát khỏi tham nhũng từ quyền sở hữu ruộng đất của nông dân.
Còn nếu ngại khi nông dân được tư hữu hóa ruộng đất sẽ gây khó khăn cho việc quy hoạch và phát triển công nghiệp, phát triển thành thị là một lo ngại không đúng. Thái Lan nông dân họ tư hữu ruộng đất, nhưng Chính phủ Thái Lan vẫn phát triển công nghiệp hóa và thành thị hóa nông thôn mà không có trở ngại gì.
Thưa Tổng Bí thư,
Làm sao thực hiện được Nghị Quyết Tam Nông của Đảng khi mà thu nhập chính đáng của nông dân trong việc bán lúa bị Hiệp hội Lương thực ViệtNamtước đoạt trắng trợn và công khai?
Cuối cùng, xin Tổng Bí thư cho các chuyên gia về nông nghiệp của Đảng và Chính phủ, phân tích đến vạch lá tìm sâu những điều tôi vừa kính trình lên Tổng Bí thư, nếu có gì gian dối không đúng sự thật, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Tổng Bí thư và trước pháp luật.
Còn, nếu những điều tôi kính trình lên Tổng Bí thư là đúng, thì đây là tiếng kêu cứu của hằng triệu nông dân khốn khổ, càng ngày đang càng nghèo hơn một cách phi lý, không còn chỗ dựa, đang trông chờ Tổng Bí thư và Đảng cứu giúp.
Xin Đảng và Tổng Bí thư cứu giúp nông dân ViệtNam.
Người gởi thư,
HUỲNH KIM HẢI

Nguồn:   http://www.boxitvn.net/bai/31125

Thứ Ba, 15 tháng 11, 2011

Câu chuyện Xô Viết

Phần1:

Diệt chủng 7 triệu người UKRAINA



Phần 2:

 Đấu tranh chống lại bản chất con người

 

 

Phần 3 :

3 năm , xử tử 11 triệu người

 

 

Phần 4:

17/9/1939 , xâm lược Balan

 

 

Phần 5:

Cấu kết với phát xít?


 

 

Phần 6:

Xtalin tàn sát người Do Thái

 

 

Phần 7:

Sau1945, tiếp tục phạm tội ác

 

 

Phần 8:

Cảm giác Tự ty và nôĩ nhục của nước NGA

 

 Nguồn: Youtube

 

Thứ Hai, 14 tháng 11, 2011

Thông cáo báo chí: S&P điều chỉnh đánh giá BICRA về Việt Nam từ nhóm ‘9’ lên nhóm ‘10’



Theo: Dự báo KTVN
-
LTS: Với điểm 1 là tốt nhất, 10 là tệ nhất, S&P đánh giá:
1. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam có nguy cơ sụp đổ cao nhất thế giới, 10/10. Hai quốc gia khác có cùng nguy cơ này là Hy lạp và Belarus;
2. Nền KT Việt Nam đang gặp nguy hiểm nhất thế giới, 10/10, do ít nhất ba lý do:
2.1. Không thể chịu đựng, đối phó nổi một cơn sốc kinh tế, tài chánh,
2.2. Nền KT bị mất cân đối nghiêm trọng vào bậc nhất
2.3. Tín dụng đang ở vào tình trạng tối nguy hiểm;
==> Đây là overtures mở đầu cho một vòng đánh SỤT TÍN DỤNG QUỐC GIA VIỆT NAM trong thời gian rất gần đây, có thể tính từng ngày, hoặc tuần.
Bản đánh giá của S&P đã không thể qua mắt các nhà đầu tư ngoại quốc.
Đa số họ có news subscription từ các cty như S&P, Fitch, Moody’s, vi khỏi phải tốn thời gian tự tìm tài liệu, tin tức, chỉ cần bỏ tiền ra mua subscription về tin VN, ĐNÁ, thì mỗi ngày vài lần họ nhận emails về các việc thế này.
Khỏi cần ai dạy bảo, các nhà đầu tư ngoại quốc tự biết họ phải làm gì.
CAPITAL FLIGHT là chắc chắn, trong thời gian rất gần đây. Ngoại quốc sẽ bán đổ bán tháo bỏ chạy, bỏ của chạy lấy người.
Và nên nhớ đây là đánh giá tệ nhất có thể cho CẢ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ NỀN KT VIỆT NAM, trong khi bên Hy lạp, Belarus, thì chỉ nền KT là bị đánh giá cùng hạng với VN, nhưng HỆ THỐNG NGÂN HÀNG tư nhân của 2 nước này không bị coi là NGUY HIỂM TỘT ĐỈNH như VN.
Xin nhắc lại lần nữa, cả HỆ THỐNG NGÂN HÀNG và NỀN KT VN bị S&P đánh giá là TỒI TỆ NHẤT THẾ GIỚI, không mức độ nào tệ hơn.
Ngay cả Zimbabwe, Pakistan, cộng hòa Chad, Công gô, cũng không tệ như VN.
==> HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM, NỀN KINH TẾ VIỆT NAM CHẮC CHẮN 100% SẼ SỤP ĐỔ TRONG THỜI GIAN RẤT GẦN ĐÂY.
http://dudoankinhte.files.wordpress.com/2011/11/greece-financial-problems.jpg?w=460
————————————————
(Tuyên bố sau đây đã được phát hành bởi cơ quan xếp hạng)
9 tháng 11
TỔNG QUÁT
– Chúng tôi xem xét lại Đánh giá Rủi ro Hệ thống Ngân hàng Quốc gia Việt Nam sau khi công bố thay đổi phương pháp luận.
– Chúng tôi điều chỉnh Đánh giá Rủi ro Hệ thống Ngân hàng Quốc gia (BICRA) của Việt Nam từ “Nhóm 9″ lên “Nhóm 10″ do thay đổi phương pháp luận.
– Chúng tôi cũng điều chỉnh mức độ rủi ro kinh tế Việt Nam từ ‘9’ lên ‘10’, và đánh giá rủi ro ngành là ở mức điểm ‘8’.
HÀNH ĐỘNG CỦA BICRA
Ngày 09/11/2011, Dịch vụ Xếp hạng Tín dụng Standard & Poor’s điều chỉnh Đánh giá Mức độ Rủi ro trong Hệ thống Ngân hàng (BICRA) của Việt Nam từ ‘Nhóm 9’ lên ‘Nhóm 10’ do thay đổi phương pháp luận. Tổ chức này cũng gia tăng mức độ rủi ro của nền kinh tế từ ‘9 điểm’ lên ‘10 điểm’ và đánh giá độ rủi ro ngành ở mức ‘8 điểm’.
LÝ DO
Chúng tôi đánh giá mảng ngân hàng của Việt Nam bằng phương pháp luận BICRA mới cập nhật của chúng tôi. Các nhóm BICRA thể hiện quan điểm của chúng tôi về rủi ro của một ngân hàng hoạt động trong một quốc gia đối mặt cũng như một hệ thống ngân hàng cụ thể phải đối mặt so với mức độ rủi ro tại các hệ thống ngân hàng khác. Nhóm ‘1’ là nhóm có mức độ rủi ro thấp nhất còn Nhóm ‘10’ là nhóm có mức độ rủi ro cao nhất. Các quốc gia khác thuộc nhóm BICRA 10 là Hy Lạp và Belarus.
Mức điểm rủi ro kinh tế “10” của chúng tôi cho Việt Nam phản ánh “rủi ro nghiêm trọng” đối với sự linh hoạt của nền kinh tế, sự mất cân bằng kinh tế và rủi ro tín dụng “tối nguy hiểm” của nền kinh tế.
Việt Nam là nước có thu nhập thấp, hệ thống tài chính và khung chính sách còn đang phát triển. Những điểm yếu này càng nâng cao khả năng dễ bị tổn thương của nền kinh tế trước những cú sốc lớn. Những viễn cảnh tăng trưởng lạc quan được hỗ trợ bởi nỗ lực bền bỉ của chính phủ trong việc tái cấu trúc nền kinh tế, phần nào bù đắp những điểm yếu này.
Chúng tôi cho rằng Việt Nam có nguy cơ mất cân bằng kinh tế nghiêm trọng, thể hiện qua tăng trưởng tín dụng nhanh trong vòng vài năm qua. Tăng trưởng mạnh về giá nhà đất cũng góp phần vào mức độ rủi ro khi giá cả rớt mạnh.
Việc đánh giá “rủi ro tín dụng tối nguy hiểm” của nền kinh tế Việt Nam dựa trên mức tín dụng khu vực tư nhân cao, mức thu nhập thấp và tiêu chuẩn bảo lãnh thô sơ. Theo quan điểm của chúng tôi, hệ thống pháp luật thiếu hiệu quả có thể khiến hồi phục chậm và chậm trễ trong giải quyết tài sản kê biên.
Trong khi đó, mức điểm rủi ro ngành ‘8’ phản ánh độ rủi ro “tối nguy hiểm” đối với khung chính sách, “rủi ro nghiêm trọng” đối với động lực cạnh tranh và “rủi ro trung bình” đối với việc cấp vốn trong toàn hệ thống.
Quan điểm của chúng tôi về khung chính sách của Việt Nam là tiêu chuẩn khung chính sách của Việt Nam còn thiếu các tiêu chuẩn quốc tế và ngân hàng trung ương dễ bị tổn thương trong chính các thỏa thuận của mình. Chúng tôi không tin rằng một hệ thống cảnh báo sớm hiệu quả có thể sử dụng như công cụ giám sát ưu tiên. Chúng tôi nhận thấy can thiệp chính sách thường là đối phó hơn là chủ động. Quan điểm của chúng tôi là khung chính sách càng yếu hơn do sự yếu kém trong điều hành và minh bạch. Hầu hết các ngân hàng không công bố báo cáo tài chính kịp thời, và thường không đầy đủ chi tiết.
Trong đánh giá của chúng tôi về động lực cạnh tranh, rủi ro cho các ngân hàng chỉ ở mức trung bình và chủ yếu ở tăng trưởng. Chúng tôi nhận thấy thị trường đang bão hòa tương đối dẫn đến cạnh tranh giữa các ngân hàng cả về vốn vay và tiền gửi. Chúng tôi cho rằng áp lực lãi suất biên ròng tạo sức ép tới khả năng định giá đầy đủ rủi ro của các tổ chức tài chính nhỏ và yếu. Hơn nữa, chúng tôi tin rằng hệ thống ngân hàng bị méo mó do việc áp dụng thường xuyên các mệnh lệnh hành chính.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam, được hỗ trợ bởi lượng tiền gửi lõi của khách hàng ở mức ổn định, ít phụ thuộc vào các nguồn vốn bên ngoài. Tuy nhiên, có rất ít các nguồn vốn khác cho các ngân hàng sử dụng cho thấy thị trường vốn nội địa của Việt Nam rất eo hẹp và yếu. Chúng tôi tin rằng chính phủ vẫn đóng vai trò hỗ trợ trong nguồn vốn cho các ngân hàng nếu cần.
Chúng tôi đánh giá chính phủ Việt Nam “hỗ trợ cao” cho các ngân hàng trong nước. Chúng tôi đã theo dõi được sự hỗ trợ dành cho các tổ chức quan trọng trong hệ thống, bao gồm việc bơm vốn.
TIÊU CHUẨN VÀ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
– Giả thuyết và Phương pháp luận Đánh giá Rủi ro Hệ thống Ngân hàng Quốc gia, 9 tháng Mười Một, 2011
– Standard & Poor’s BICRAs Nhấn mạnh sự Thay đổi Cân bằng trong Ngân hàng toàn cầu, 9 tháng Mười Một, 2011
– S&P’s BICRAs Dự liệu Rủi ro Ngân hàng của 86 Quốc gia, 9 tháng Mười Một, 2011
Nguồn: Reuters, TEXT-S&P: BICRA on Vietnam revised to Group ’10′ from Group ’9′, 9/11/2011, URL: http://www.reuters.com/article/2011/11/09/idUSWLA880420111109
Dịch bởi Dự đoán kinh tế Việt Nam, 11 Tháng Mười Một 2011

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Giáo sư Văn Như Cương nhầm rồi!

Nguyên Ngọc
Sau khi đưa bài Để nhận ra cái biện chứng lạ lùng và tất yếu của lịch sử trên SGTT, mình nhận được email của bác Nguyên Ngọc gửi cho bản gốc, với lời nhắn: “Đây là bài nguyên văn, Sài gòn tiếp thị đã cắt hơn nửa bài. Tùy Lập sử dụng.” Rất mừng, xin chân thành cảm ơn bác Nguyên Ngọc đã gửi cho bản gốc, đọc rất sướng.
Giáo sư Văn Như Cương viết: “Trong kì thi đại học vừa qua, điểm thi môn Sử thấp một cách thảm hại. Nói chung chỉ độ 4% trên điểm trung bình. Nhiều trường có tới 99% điểm dưới trung bình, mà chủ yếu là điểm 0 và điểm 1. Có trường chỉ 1 thí sinh có điểm 5 là cao nhất. Vẫn biết chuyện dạy Sử và học Sử từ trước đến nay đã có nhiều vấn đề nhức nhối, nhưng một kết quả như năm nay thực sự làm cho xã hội xôn xao, và làm đau đầu các nhà quản lí giáo dục, các nhà sử học, các thầy giáo, học sinh và cha mẹ học sinh…”
Thưa giáo sư Cương, ông nhầm rồi! Có một nhà quản lý giáo dục, mà là người đứng đầu, có trách nhiệm lớn nhất trong các nhà quản lý giáo dục, không hề “đau đầu” như giáo sư tưởng và tin. Trái lại, với cái đầu vô cùng thanh thản, hết sức vui vẻ thoải mái, tuyệt đối bình tĩnh, ông ấy nói: “Đấy là chuyện bình thường”. Chuyện nhỏ xíu ấy mà, gì mà rối lên thế! Thậm chí thấp vậy chứ thấp nữa, chẳng hạn toàn bộ thí sinh thi sử đều bị điểm không, cũng chẳng lay chuyển được sự bình tâm của ông, bởi vì ông đã có một phép mầu, ông đã tìm ra một thủ phạm tuyệt đối và tuyệt vời: Thời đại! Chắc như đinh đóng cột và với một sự liều lĩnh khó tin, ông tuyên bố trước những người đối thoại: “Điểm Lịch sử thấp là vấn đề của thời đại. Các bạn hãy nhìn rộng ra nhiều nước, không chỉ ở Việt Nam có hiện tượng ấy… Có những thứ do thời đại, do xu thế phát triển tác động. Nhìn kỹ một chút các bạn sẽ thấy môn lịch sử kém thu hút, điểm Lịch sử thấp không phải chỉ ở Việt Nam, ở châu Á. Đó là chuyện của thời đại, của thế hệ này, do cách mạng khoa học công nghệ, do sự biến đổi, đòi hỏi của thị trường lao động…” Nghĩa là ngoài “thời đại”, ông còn tìm ra thêm được mấy thủ phạm đích đáng nữa, đều là con đẻ của cái “thời đại” chết tiệt kia: “xu thế phát triển”, “thế hệ này”, “cách mạng khoa học công nghệ”, “sự biến đổi đòi hỏi của thị trường lao động” v.v…
Liều lĩnh khó tin, bởi xin hỏi: nhờ ông “nhìn rộng ra” và chỉ cho biết, dù chỉ một ví dụ thôi, với tất cả các thủ phạm như ông đã dễ dàng phát hiện, có nơi nào trên toàn thế giới có kết quả thi môn lịch sử thê thảm như vừa rồi trong nền giáo dục do ông đảm trách trước quốc dân?
Đây là chuyện hết sức nghiêm túc, nên cũng phải nói với nhau rất nghiêm túc.
Trước hết, chính các thứ thời đại, xu thế, thế hệ, cách mạng khoa học công nghệ, biến đổi thị trường lao động… như ông vừa kể lại đòi hỏi hơn bao giờ hết phải coi trọng  khoa học xã hội nhân văn, trong đó có sử và môn sử (và cả môn văn nữa, mà kết quả vừa rồi cũng chẳng hay ho hơn mấy). Xin nêu một bằng chứng: chính là đứng trước những vấn đề như vậy, mà cách đây mấy năm trường đại học Harvard nổi tiếng của Mỹ đã rà soát lại toàn bộ chiến lược của họ, và nghiêm khắc nhận ra, mặc dầu đã cố gắng rất nhiều, họ vẫn còn coi trọng chưa đủ các môn xã hội nhân văn và quyết chuyển hướng mạnh mẽ hơn nữa vào các môn ấy. Bởi vì đối với bất cứ xã hội nào, ở bất cứ “thời đại” nào, thời đại phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ thì càng khẩn thiết hơn, chính khoa học xã hội nhân văn là hết sức cần thiết để giữ cái nền bền chắc cho xã hội và con người, cho sự phát triển bền vững, cho con người dẫu có khoa học công nghệ cao đến đâu, vật chất nhiều đến đâu, cũng vẫn còn là con người chứ không phải là những cái máy khô cằn, nhất là những cái máy chỉ biết hau háu làm ra tiền và nhai tiền. Giữ cho nhân loại còn là nhân loại, chứ không là một đống những vật tinh xảo mà vô cảm và vô lương. Một xã hội quay lưng lại với các khoa học xã hội và nhân văn là một xã hội suy đồi. Một nền giáo dục trong thực tế liệt khối C xuống hạng bét, để cho “chuột chạy cùng sào mới vào khối C”, là một nền giáo dục suy đồi. Và bế tắc. Buồn thay đó chính là tình trạng thực của nền giáo dục chúng ta hiện nay. Và đừng nói rằng điều đó không liên quan gì đến tội ác gia tăng trong xã hội, và cả trong học đường, làm nhức nhối toàn xã hội, còn những người đứng đầu ngành giáo dục thì bình chân như vại. Tất nhiên vấn đề ở đây lớn hơn vấn đề giáo dục, lớn hơn vấn đề của ngành giáo dục, nhưng muốn nói gì thì nói, ngành giáo dục phải chịu trách nhiệm chính. Bởi vì nó được sinh ra, xã hội bỏ tiền mồ hôi nước mắt ra nuôi nó, là để nó làm trước hết công việc ấy: giữ cái nền bình ổn lâu dài vững chãi cho xã hội, cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Quả đã đến lúc cần rà soát lại một cách căn bản toàn bộ chiến lược của nền giáo dục này; và câu hỏi căn bản, đầu tiên là: nó định chế ra máy hay đào tạo ra người? Nếu quả nó định đào tạo ra người thì nhất thiết không vì bất cứ lý do gì, vì lý do “thời đại” càng không, có thể để mặc cho khối C lủi thủi như vậy, không thể coi kết quả thảm hại của thi sử năm nay là bình thường. Đấy là thảm họa, bởi vì đấy không chỉ là chuyện kết quả học sử thi sử như thế nào, mà là dấu hiệu con người coi các giá trị tinh thần và nhân văn chẳng còn đáng xu nào! Một thảm họa xã hội!
 Mấy hôm nay nhiều người đã bàn tán xôn xao về sự cố này, và nhiều ý kiến đã tập trung vào cách dạy và học sử. Chắc đều đúng. Tuy nhiên hình như cũng chưa đến lõi của vấn đề. Hẳn ai cũng biết trong các môn học ở trường hiện nay, bị học sinh sinh viên chán nhất, ghét nhất, do đó cũng học kém nhất, học một cách đối phó nhất, kết quả tất cũng tệ nhất là môn sử và môn văn – cùng một vài môn khác thuộc cái gọi là “chương trình cứng” – . Vì sao? Rất đơn giản, và chắc cũng không ít người biết rõ nhưng vì lý do này khác đã không nói ra. Thôi thì cho tôi nói thật vậy: vì đó là những môn bị chính trị hóa nhiều nhất, nặng nề nhất! Chính trị chắc chắn không có gì là xấu, trái lại là khác. Rất cần thiết và cũng có thể rất hay. Học chính trị là quá cần thiết chứ, và có thể dạy thật hay nữa. Nhưng sử là sử, văn là văn, chính trị là chính trị, không thể và hoàn toàn không nên lẫn lộn, dùng cái này để làm cái kia, đem cái này làm công cụ cho cái kia. Cũng không phải là “thống soái” để cho tất cả những cái khác, môn khác phải châu vào cúi đầu phục vụ nó. Mỗi cái có chức năng riêng không thể thay thế của nó để làm nên con người ra người. Nói trắng ra, hiện nay người ta chán, ghét học văn, học sử, là vì dạy văn thì có thật sự dạy văn đâu mà là dùng văn để dạy chính trị, chủ yếu để dạy chính trị. Sử cũng hoàn toàn như vậy, không hề khác. Một ví dụ: có lần tôi đã nói với một người hiện có vị trí rất cao trong lãnh đạo đất nước rằng tất cả các đề thi sử tốt nghiệp và thi vào đại học gần 40 năm nay đều chỉ hỏi về lịch sử Việt Nam từ sau năm 1930. Cứ như chỉ từ năm 1930 nước ta mới có cái gọi là lịch sử, còn trước đó … chỉ là tiền sử, là thời man dã, người còn là khỉ vượn gì đó thôi chứ chưa thành người! Ông ấy ngạc nhiên hỏi thật thế sao? Thì anh cứ kiểm tra  mà xem, tôi bảo. Không biết sau đó ông ấy có kiểm tra không, nhưng rồi không thấy ông nói gì nữa … Học sử học văn như thế, thú thật đến tôi cũng chán ghét, và đi thi chưa chắc đã được 0,5 điểm như thí sinh tội nghiệp vừa rồi.
Ông Bộ trưởng hỏi: Thì tin học có gì hấp dẫn đâu nào, tại sao người ta vẫn lao vào học? Một là, hấp dẫn quá chứ, ít nhất nó cũng cho ta thấy con người có thể sáng tạo ra những thứ thông mình đến chừng nào, chẳng thú vị sao? Nhưng còn có điều quan trọng hơn: nó không bị chính trị hóa, không dễ gì chính trị hóa nó như văn và sử.
Vậy đó, sự thật! Còn e dè, sợ “nhạy cảm”, tránh né nhau, kiêng sợ những lực lượng vô hình như thần thánh, không dám nói thật ra thì có thay đổi cách học cách dạy đến mấy, khéo sang năm môn sử lại 99,99% dưới điểm 5 cho mà xem. Và văn cũng không hơn đâu. Nhìn thẳng, nói thẳng một lần cho xong đi, để mà còn tiến lên cùng thiên hạ, để có một nền giáo dục thực sự lành mạnh và hiệu quả, đào tạo con người ra người, cho một đất nước thật sự văn minh.
Gần đây giáo sư Ngô Việt Trung, viện trưởng Viện Toán học Việt Nam, đã nói rất thẳng thắn: Phải tách khoa học ra khỏi thế quyền. Giáo sư Hoàng Tụy thì nói: Phải “thế tục hóa”nền giáo dục của chúng ta. Ai cũng biết cuộc cách mạng về giáo dục ở chấu Âu đưa đến nền giáo dục hiện đại rực rỡ ngày nay, là kết quả tuyệt vời của cuộc đấu tranh thế tục hóa giáo dục, giải phóng giáo dục ra khỏi kìm chế lâu dài của Nhà thờ. Cần hiểu lời Hoàng Tụy trong ý nghĩa đó.
 Nhân nói chuyện sử, xin kể điều này: Ở Pháp có một tổ chức do các nhà sử học độc lập lập ra, tên là CVUH (Comité  de Vigilance face à l’usage public de l’histoire), có thể dịch là Ủy Ban Cảnh giác đối mặt với việc đưa Lịch ra sử dụng trong Công chúng. Vậy đó, lịch sử luôn rất dễ bị lợi dụng, thậm chí bóp méo, cắt xén, cắt nghĩa tùy tiện bởi các thế lực khác nhau nhằm làm công cụ cho những mục đích phi lịch sử. Ở nhà trường, cảnh giác với lợi dụng này càng phải ráo riết hơn. Học lịch sử tuyệt nhiên cũng không cần nhớ thuộc lòng đến mụ mị bất cứ ngày tháng phiền phức và vô ích nào, khi như lời ông Bộ trưởng, chúng ta đang sống trong “thời đại” này, cái thời đại chỉ cần nhẹ tay nhấp chuột là ra tất cả. Học sử là để có cái mà không bất cứ con chuột hiện đại nào nhấp ra được cho ta: nhận ra được biện chứng lạ lùng và tất yếu của lịch sử, để mà biết làm người cho xứng đáng người, làm công dân độc lập, tự chủ, sáng tạo, đầy trách nhiệm của nước Việt và của thế giới. Đặc biệt hôm nay, khi vận mệnh Tổ quốc một lần nữa lại đứng trước thử thách lớn.
N. N
Tác giả gửi cho Quêchoa
        

Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2011

Thư ngỏ gửi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, về việc bắt giam trái phép công dân Nguyễn Văn Hải

bởi Mẹ Nấm vào ngày 21 tháng 10 2011 lúc 11:13 sáng
Kính gửi: Ông Trương Tấn Sang - Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam 

V/v: về vấn đề bắt giam trái phép công dân Nguyễn Văn Hải.

Kính thưa ông,

Chúng tôi, những công dân Việt Nam cùng ký tên dưới đây, gửi thư này đến ông vì muốn ông quan tâm và can thiệp trong cương vị Chủ tịch nước đối với tình trạng giam giữ trái phép một công dân yêu nước.

Đó là trường hợp của ông Nguyễn Văn Hải, tức blogger Điếu Cày, một cựu chiến binh Quân Đội Nhân Dân Việt Nam bị công an tiếp tục giam giữ trái pháp luật đã tròn một năm, sau khi ông đã mãn hạn 36 tháng tù giam về tội danh “trốn thuế” vào ngày 19/10/2010.

Cho dù bản chất của việc kết án xuất phát từ những bất đồng quan điểm của ngành Công an đối với những nỗ lực kiên cường của ông Nguyễn Văn Hải khi ông đồng hành cùng nguyện vọng của dân tộc để khẳng định chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam,
Cho dù việc bản án 30 tháng tù giam mà ông Nguyễn Văn Hải thọ lãnh là vắng bóng công lý,
Nhưng ông Hải đã thi hành đúng thời hạn mà bản án đã dành cho ông.

Do đó, việc tiếp tục giam giữ công dân Nguyễn Văn Hải không có phán xét của tòa án, không một thông tin gì về ông đến thân nhân, và cũng không một tuyên bố chính thức gì về những quy trình pháp luật sẽ áp dụng cho ông Hải là một hành động vi hiến, phạm pháp, vô nhân đạo và không tôn trọng quyền công dân.

Thưa ông,
Theo đúng nguyên tắc của một nhà nước pháp quyền, Chủ tịch nước là người giữ vai trò điều hành đất nước cao nhất. Phải có con người mới có quốc gia, và tự do là vốn quý nhất của một con người. Do đó, trường hợp của công dân Nguyễn Văn Hải có thể được xem là một vấn đề rất nghiêm trọng ảnh hưởng đến những chính sách nội an cũng như đối ngoại của văn phòng Chủ tịch nước vì đã tạo ra một vết nhơ tồi tệ của cả hệ thống pháp lý Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng tinh thần “thượng tôn pháp luật” mà Việt Nam ta đang cố gắng theo đuổi.

Ông đã từng khẳng định rằng: “Vấn đề chủ quyền quốc gia là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Bất cứ nước nào dù to hay bé cũng đều có nhận thức như vậy. Giữ vững độc lập chủ quyền, trong đó có chủ quyền biển đảo, trước hết phải dựa vào cơ sở quan trọng là luật pháp (luật quốc nội và luật quốc tế)…”
Vậy, nếu “cơ sở quan trọng là luật pháp” không được tôn trọng cho một công dân Việt Nam thì chính quyền Việt Nam do ông ở địa vị cao nhất lãnh đạo, làm sao có thể dùng nền tảng luật pháp để giải quyết chuyện to lớn hơn là giữ vững độc lập chủ quyền?

Quan trọng hơn là nếu không tẩy sạch được những vết nhơ của nền luật pháp quốc gia thì làm sao ông có thể gầy dựng lại niềm tin của nhân dân vào một nền pháp lý công minh để có thể đồng lòng và đồng hành cùng người Chủ tịch nước giải quyết “độc lập chủ quyền”, loại trừ “bầy sâu tham nhũng” như trong các tuyên bố của ông?

Với những lý do trên và với sự tin tưởng rằng vai trò Chủ tịch nước phải độc lập với những quyền lực chính trị khác, nghĩa vụ và trách nhiệm của ông đối với hơn 90 triệu công dân đứng trên mọi trách nhiệm khác của ông, chúng tôi tin rằng ông sẽ có những quan tâm và biện pháp thích đáng để chấn chỉnh lại những sai trái, tái tạo niềm tin từ nhân dân mà chính nhiều viên chức các cấp của ông phải công nhận là đã và đang khủng hoảng trầm trọng.

Chúng tôi, những công dân Việt Nam hy vọng rằng ông Chủ tịch nước với tuyên bố khẳng định chủ quyền của đất nước, với hành động cụ thể là cam kết hợp tác khai thác dầu khí với Ấn Độ trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, sẽ bắt đầu bằng một quyết định nhỏ và dễ nhất trong thẩm quyền của Chủ tịch nước: trả tự do ngay lập tức cho công dân, cựu chiến binh Quân đội Nhân dân Nguyễn Văn Hải.

Những tuyên bố và hành động của ông sẽ có ảnh hưởng lớn lao đến tương lai và vận mệnh của đất nước và vì thế đòi hỏi thời gian, ý chí và quan trọng hơn hết là thái độ nhất quán, trước sau như một, cũng như tinh thần thật lòng đặt Tổ Quốc lên trên hết.

Trân trọng gửi đến ông lời chúc sức khoẻ và quyết tâm cùng với nhân dân diệt trừ "bầy sâu tham nhũng", bảo vệ chủ quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Việt Nam và đặt Tổ quốc lên trên hết.

Trân trọng,

Những người cùng ký tên :

1. Nguyễn Ngọc Như Quỳnh - Nha Trang
2. Nguyễn Văn Dũng - Phú Thọ
3. Nguyễn Hoàng Vi - Sài Gòn
4. Vũ Sỹ Hoàng - Sài Gòn
5. Huỳnh Công Thuận - Sài Gòn
6. Antôn Lê Ngọc Thanh - Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế - 38 Kỳ Đồng - Sài Gòn
7. Lã Việt Dũng - Hà Nội
8. Vũ Quốc Ngữ - Hà Nội
9. Hoàng Đức Trọng - Sài Gòn
10. Ngô Thanh Tú - Sài Gòn
11. Nguyễn Minh Chính - Hà Nội
12. Nguyễn Đức Phổ - Sài Gòn
13. Trần Công Vỹ - Đà Nẵng
14. Nguyễn Hồ Nhật Thành - Sài Gòn
15. Trần Xuân Huyền - Nghệ An
16. Nguyễn Kế Hoàng Minh - Sài Gòn
17. Đào Hữu Nghĩa Nhân - Sài Gòn
18. Võ Thành Nam - Bến Tre
19. Tô Oanh - Bắc Giang
20. Đỗ Nam Hải - Sài Gòn
21. Trương Minh Tam - Hà Nội
22. Hoàng Mai Oanh - Hà Nội
23. Trần Hoài Bão - Sài Gòn
24. Nguyễn Văn Khải - Sài Gòn
25. Trần Quang Duy - Hải Phòng
26. Nguyễn Chí Tuyến - Hà Nội
27. Trần Thị Nga - Hà Nam
28. Lê Hải - Đà Nẵng
29. Trần Thiện Kế - Hà Nội
30. Đinh Bằng Đoàn - ĐakLak
31. Nguyễn Văn Am - Sài Gòn
32. Bùi Thanh Thám - Sài Gòn
33. Nguyễn Văn Đông - Đồng Nai
34. Nguyễn Minh Tuấn - Phan Thiết
35. Nguyễn Thiết Thạch - Sài Gòn
36. Lê Xuân Tịnh - Đà Nẵng
37. Ngô Quang Thanh - Sài Gòn
38. Vũ Văn Sơn - Sài Gòn
39. Paul Lê Xuân Lộc - Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế - Sài Gòn
40. Phạm Toàn - Hà Nội
41. Đào Tấn Phần - Phú Yên
42. Nguyễn Bắc Truyển - Sài Gòn
43. Ngô Duy Quyền - Hà Nội
44. Trần Tuấn Tú - Sài Gòn
45. Vũ Hải Long - Sài Gòn
46. Phạm Văn Đức - Sài Gòn
47. Tô Hải Triều - Nha Trang
48. Lê Dũng - Hà Nội
49. Bùi Thanh Hiếu - Hà Nội
50. Lê Bảo - Sài Gòn
51. Dương Sanh - Nha Trang _Khánh Hòa
52. Lê Minh Sơn - Tây Ninh
53. Nguyễn Thượng Long - Hà Nội
54. Đoàn Lâm Tất Linh - Kiên Giang
55. Hà Chí Hải - Bắc Giang
56. Nguyễn Đan Quế - Sài Gòn
57. Chu Minh Tuấn - Đà Lạt
58. Trần Duy - Đồng Nai
59. Lê Văn Tuynh - Phan Thiết
60. Nguyễn Xuân Tùng - Hải Phòng
61. Phê-rô Nguyễn Hữu Giải, Linh mục Tổng giáo phận Huế
62. Phê-rô Phan Văn Lợi, linh mục Giáo phận Bắc Ninh.
63. Nguyễn Thành Tiến - Hải Phòng
64. Huỳnh Ngọc Chênh - Sài Gòn
65. Nông Thế Kim - Sài Gòn
66. Đặng Thanh Quý - Sài Gòn
67. Vương Văn Quang - Sài Gòn
68. Hồ Vĩnh Trực - Sài Gòn
69. Dương Văn Nam - Nam Định
70. Lê Văn Ái - Sài Gòn
71. Lê Đoàn Thể - Hà Nội
72. Nguyễn Hồng Xuyến - Sài Gòn
73. Lê Hùng - Hà Nội
74. Ngô Thái Văn - Sài Gòn
75. Nguyễn Cao Sơn - Hà Nội
76. Hoàng Tiến Cường - Hà Nội
77. Hồ Sỹ Long - Nghệ An
78. Nguyễn Trung Lĩnh - Hà Nội
79. Lê Thanh Tùng - Sài Gòn
80. Nguyễn Thanh Huyền - Sài Gòn
81. Trần Quốc Hùng - Sài Gòn
82. Chu Trọng Thu - Sài Gòn
83. Phạm Văn Minh - Hà Nội
84. Trần Trung Hiếu - Hà Nội
85. Nghiêm Ngọc Trai - Hà Nội
86. Hòa thượng Thích Minh Đạo - chùa Giác Đạo_Hóc Môn - Sài Gòn
..........................

Người Việt Nam đang sống và làm việc tại nước ngoài đồng ký tên:

1. Tôn Nữ Tường Vy - Đài Loan
2. Ngô Quốc Hùng - Đức
3. Trần Phong - Nước Cộng hòa Áo
4. Phan Thị Trọng Tuyến - Pháp
5. Nguyễn Quang Trọng - Pháp
6. Trương Văn Khiêm - Frankfurt - Cộng Hòa Liên Bang Đức
7. Võ Việt Long - Pháp
8. Nguyễn Mạnh Hưng - Nhật Bản
9. Nguyễn Xuân Thọ - Cộng Hòa Liên Bang Đức
10. Cao Huấn Phạm - Hà Lan
11. Hà Thị Huệ Chi - Ba Lan
12. Nguyễn Công Huân - Đan Mạch
13. Nguyễn Sỹ Tuấn - Úc
14. Đào Đức Phương - Thụy Điển
15. Phan Lưu Quỳnh - Úc
16. Nguyễn Thị Hảo - Hàn Quốc
17. Trần Quang Hạ - Mỹ
18. Lê Hinh - Mỹ
19. Võ Tấn Huân - Hoa Kỳ
20. Bùi Long - Mỹ
21. Nguyễn Như Ý - Úc
22. John Hùng Nguyễn - Úc
23. Kính Nguyễn - Mỹ
24. Nguyễn Chính Kết - Mỹ
25. Khánh Đoàn - Mỹ
26. Phạm Đình Tiến - Mỹ
27. Hoàng Xuân Hinh - Canada
28. Vũ Văn Lợi - Hàn Quốc
29. Trần Anh - Mỹ
30. Đào Minh Tâm - Mỹ
31. Dương Lê - Mỹ
32. Nguyễn Lưu - Hà Lan
33. Lan Phạm - Mỹ
34. Lâm Văn Hoài Hùng - Mỹ
35. Nguyễn Thành Sơn - Mỹ
36. Bùi Tín - Pháp
37. John Phạm - Mỹ
38. Lê Quỳnh Dao - Pháp
39. Peter Trần - Mỹ
30. Trần Đình Tuấn - Olso - Na Uy
31. Khâu Thị Quốc Hoa - Phần Lan
32. Phạm Kỳ Đăng - Đức
33. Trần Kim Quy - Mỹ
34. Hoàng Như Vĩnh - Canada
35. Quý Nguyễn - Mỹ
36. Minh Trình Nguyễn - Đức
37. Nguyễn Thị Bích Hằng - Đức
38. Nguyễn Anh Phong - Đức
39. Đinh Thị Hồng - Đức
40. Đào Minh Tâm - Mỹ
41. Anthony Vuong Doan - Mỹ
42. Nguyễn Thu Hằng - Đan Mạch
43. Nguyễn Thế Kim - Cộng Hòa Séc
44. Tom Ha - Mỹ
45. Lê Thụy Minh Thư - Mỹ
46. Anthony Hoang - Mỹ
47. Trương Hữu Đức - Mỹ
48. Lê Hữu Hoàng - Đức
49. Lê Anh Tài - Mỹ
50. Nhi Dương - Mỹ
51. Kevin Nguyen - Mỹ
52. Trương Tuấn Đức - Mỹ
53. Đỗ Xuân Cang - Praha - Cộng hòa Séc
54. Trần Quý Cảnh - Bỉ
55. Alex Nguyen - Pháp
56. Võ Minh Quốc - Canada
57. Trần Quang Ngọc - Mỹ
58. Hồ Sỹ Sáng - Đức
59. Nguyễn Hoàng Sơn - Úc
60. Phan Thị Đình Chi - Mỹ
61. Mathew Ly - Úc
62. Phuong Nga Truong - Úc
63. Betty Truong - Úc
64. Bich Son Tran - Úc
65. Dan Tran - Mỹ
66. Hong Nguyen - Úc
67. Tưởng Năng Tiến - Mỹ
68. Vũ Khánh Thành - Anh
69. Nguyễn Ngọc Điệp - Bỉ
70. Vinh Thang Nguyen - Mỹ
71. Nguyễn Kim Luyến - Bỉ
72. Phan Quang Su - Úc
73. Hanh Duc Dao - Đan Mạch
74. Trần Đông - Úc
75. Nguyễn Tấn Trung - Úc
76. Vũ Đình Kh. - Canada
77. Nguyễn Tâm Nhất - Anh
78. Trần Minh - Úc
79. Đặng Tiến Dũng - Na Uy
80. Trần Thiên Hương - Đức
81. Vương Vũ Vi - Mỹ
82. Nguyễn Minh Cần - Nga
83. Nguyễn Tiến Dũng - Đức
84.........




--------


Các bạn đồng ý ký tên, xin vui lòng cung cấp: Họ tên - Địa chỉ - Điện thoại - email.

Mình sẽ chỉ công bố Họ tên và địa chỉ (trong thư in ra gửi trục tiếp cho ông Sang), các thông tin còn lại sẽ giữ kín , nhưng cần phải có, để đảm bảo tính khách quan và trung thực của chữ ký.

Nếu không có đủ thông tin cá nhân, mình sẽ không thể để tên mọi người vào thư này được.

Chân thành cám ơn.

Thông tin xin email về : mothermushroom@gmail.com

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2011

Tiểu thuyết Une voix dans la nuit - II : Vấn đề trí thức và Độc tài đảng trị

Phần XVII: Nguyễn Mạnh Tường - Tiểu thuyết Une voix dans la nuit - II : Vấn đề trí thức và Độc tài đảng trị

Nguyễn Mạnh Tường  thời viết tiểu thuyết Une Voix dans la nuit (Tiếng vọng trong đêm) đầu thập niên 1990.
Nguyễn Mạnh Tường thời viết tiểu thuyết Une Voix dans la nuit (Tiếng vọng trong đêm) đầu thập niên 1990.

"Khi những thực thể sống động là con người phải mặc cùng một loạt đồng phục, cùng bước một nhịp, cùng hô một khẩu hiệu, cùng có một cử chỉ, thì những thực thể ấy đã trở thành người máy, sự tự động đã thay thế cho sự biến đổi, máy móc thay thế cho đời sống! Nhưng cuối cùng, không ai thành công trong sự máy móc hoá dân tộc mình mãi mãi. Trong mối song quan: chính quyền-dân chúng, không một người trí thức nào lựa chọn chính quyền, trừ phi họ bị những tham vọng đê tiện dẫn dắt. Ta đứng về phía dân chúng bởi vì chính ta là người dân." (Nguyễn Mạnh Tường).

Trong phần hai của tiểu thuyết Une voix dans la nuit (Tiếng vọng trong đêm), Nguyễn Mạnh Tường dùng hình thức đối thoại để mô tả cuộc chiến một mất một còn giữa người cộng sản và người trí thức, qua các cuộc nói chuyện tay đôi giữa Năng và Tổng Bí Thư; giữa Hiên và Đắc; giữa luật sư Mạn và bác sĩ Xuân. Người đọc tinh ý sẽ nhận ra Hiên và Mạn là hình ảnh Nguyễn Mạnh Tường, Đắc là hình ảnh Nguyễn Hữu Đang, người đến mời Nguyễn Mạnh Tường tham gia NVGP, và Xuân chính là bác sĩ Nguyễn Xuân Nguyên, người được chánh án Châu (Đặng Châu Tuệ) mời vào đảng Xã Hội cùng một lúc với Nguyễn Mạnh Tường. Tổng Bí Thư xuất hiện hai lần trong tiểu thuyết, lần đầu sau khi hoàn tất chiến dịch Cải cách ruộng đất [trên thực tế, trước tháng 10/1956, Trường Chinh làm Tổng Bí Thư, từ tháng 10/1956 đến tháng 9/1960, Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch kiêm Tổng Bí Thư] và lần thứ nhì, khi Đảng quyết định làm đám ma cho hai đảng Xã hội và Dân chủ [trên thực tế, đảng Dân chủ thành lập ngày 30/6/1944, giải tán ngày 20/10/1988; đảng Xã hội thành lập: 22/7/1946, giải tán: 15/10/1988], Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí Thư.
Hình thức đối thoại này mở cửa vào nội bộ của hai phía cộng sản và trí thức, trong quá trình hành động từ 1945 đến 1990, cho thấy họ hiểu rõ nhau đến mức độ nào, đồng thời xác định: Sự căm thù trí thức tuy là sản phẩm Mác-Lê-Mao, nhưng khi được áp dụng dưới sự lãnh đạo của vị nguyên thủ Việt Nam, đã trở thành sản phẩm Việt, khó có thể quy trách nhiệm cho Nga Tàu.
Chúng tôi trích dịch những đoạn mấu chốt, không bình luận, để ngôn ngữ Nguyễn Mạnh Tường trực tiếp đi vào tim óc người đọc.

Người trí thức Việt Nam dưới mắt người cộng sản

"Vị Tổng Bí Thư bước xuống bậc cuối của nấc thang danh dự đón Năng được ông triệu tập đến tư dinh để đàm luận một vấn đề quan trọng. Vừa ngồi xuống bộ salon, nhắp ngụm trà ướp sen, ông chủ nhà đi ngay vào đề:
- Tôi mời đồng chí đến để cùng thảo luận về vấn đề trí thức. Sau khi giải quyết vấn đề Cải cách ruộng đất, đánh bại tầng lớp địa chủ và sau khi tổ chức Cải tạo tư sản, chấm dứt sự bóc lột của bọn tư sản thành thị, đã đến lúc chúng ta phải đánh vào vấn đề trí thức.
Không ai chối cãi được sự quan trọng của chất xám trong thế giới tân tiến. Thế kỷ chúng ta đã chứng kiến sự chinh phục sáng chói của khoa học trong tất cả các địa hạt. Người trí thức đã đạt địa vị cao quý trong xã hội và được hưởng sự kính trọng và khâm phục của cả nhân loại. Các đoàn thể trí thức mở rộng chi bộ, thế lực, liên đới nhau trong vũ trụ, bảo vệ quyền lợi của họ trước dư luận thế giới. Vậy sự khôn khéo khuyên chúng ta phải cẩn thận cực kỳ trong mối quan hệ với từng lớp trí thức, tránh tất cả mọi bực mình, mọi kết án đến từ dư luận thế giới. Nhưng trước khi đi thẳng vào vấn đề, chúng ta cần phải khảo sát khái niệm trí thức Việt Nam.
- Đồng chí Tổng Bí Thư hoàn toàn có lý, trí thức Việt Nam có những dấu ấn đặc thù khiến họ có một chỗ đứng riêng trong thế giới chung của trí thức.
- Theo đồng chí, những dấu ấn đặc thù ấy là gì? Từ nhiều năm nay đồng chí đã có dịp tiếp xúc với trí thức. Trong tất cả chúng ta, chỉ có đồng chí là duy nhất được hưởng đặc điểm này.
- Tôi rất tiếc sẽ làm đồng chí Tổng Bí Thư thất vọng. Tuy đã giao dịch nhiều với trí thức, nhưng tôi không dám nói là biết rõ họ.
- Tại sao? Tôi tưởng cứ gặp luôn thì khắc biết rõ người.
- Dạ đúng, nhưng chỉ đối với những người không phải là trí thức. Chúng ta chỉ có thể biết rõ những người ta giao thiệp nếu họ không tìm cách giấu ta, hoặc có thể nói, họ sống đúng theo bản chất của họ, nghiã là, thẳng thắn phô bày cá tính, lột trần nét tự nhiên của họ. Những người cộng sản là như thế, họ thoải mái xử sự như những vị chúa tể. Còn bọn trí thức, ngược lại, sống khép kín, không để lộ tâm tư. Họ đứng thẳng hàng theo đúng nghi thức, tránh gây chú ý. Trong các hội nghị hay các chỗ tụ họp đông đảo, cũng hô khẩu hiệu, cũng giơ tay, giơ nắm đấm, y hệt mọi người; giữ cùng một vẻ tôn kính khi nói với người cộng sản cũng như khi nói về những Đảng viên. Nhưng ta đừng ngây thơ tin rằng họ thật tình. Bởi nhát gan, bởi sợ bị đánh, bởi ghê tởm nhà tù, mà họ trở thành bậc thầy của nghệ thuật đóng kịch, nhưng đây không phải là sự đạo đức giả, mà là sự tự vệ. Còn khi bắt buộc phải phát biểu ý kiến trên diễn đàn, trong nội dung và ngôn ngữ bài diễn văn, trong lối phát âm, hướng nhìn, họ luôn luôn khăng khít hướng về biểu tượng búa liềm. Một người ngoại cuộc quan sát, sẽ tưởng đó là một Đảng viên thực thụ, nhất là bao giờ họ cũng kết luận bằng công thức nghi lễ: Chủ nghiã cộng sản muôn năm!
Sự căm thù chính trị của họ sánh ngang với sự sợ công an. Trước hết họ muốn bảo vệ sự bình an của tâm hồn và nếu được, không tham dự những cuộc biểu tình hoặc chỉ có mặt trong chốc lát, đủ để cho người ta thấy sự hiện diện. Trong những hội họp công việc, họ lắng nghe tranh cãi, nhưng hầu như không bao giờ lên tiếng, hoặc nếu bị mời phát biểu, thì họ luôn luôn đồng ý với những nhà lãnh đạo cộng sản. Ta không thể chê trách gì họ được, trừ cái sự chẳng được tích sự gì!" (Trang 62- 63)

Sau khi phân tích hành động và tâm lý trí thức, Năng định nghiã trí thức, phân biệt rạch ròi hai loại trí thức thực và giả:

 "Ở đây, tôi muốn nói những nhà trí thức đích thực, đối cực toàn diện với những trí thức giả mạo, ngực bơm phồng những tước hiệu chẳng ai kiểm chứng tính chân xác, những bằng cấp tạp nham mà giới thẩm quyền cũng chẳng thèm kiểm soát thật giả, nhưng khi được một vị lãnh đạo bảo lãnh, thì tức khắc là có giá, kẻ mang bằng được hưởng tất cả lợi thế, vinh dự và giá trị của nó được giới văn hoá chính thức công nhận! (...)
Ở những nhà trí thức đích thực, nhân cách đi đôi với văn hoá. Văn hóa ở đây không có nghiã là kiến thức. Có những người đầy kiến thức, là chuyên viên hàng đầu trong địa hạt hoạt động của mình, nhưng họ vẫn vô văn hoá, bởi lối nhìn về con người, về vạn vật của họ ấu trĩ vô cùng. Sự nhận thức thực tế xã hội và con người của họ ngây ngô lạ lùng! Họ thiếu cái gì? Thiếu sự phán đoán được rèn luyện qua sách vở, thiếu sự giao tiếp với con người, thiếu tiếp cận những vấn đề của cuộc sống, thiếu trao đổi tư tưởng với người khác, thiếu sự suy nghĩ sâu xa và đúng đắn về những thành công và thất bại mà kinh nghiệm sống đem lại. (...)
Nhờ nhân cách và văn hoá mà người trí thức, trung quân trong thời phong kiến, có uy tín đối với quần chúng và được vương quyền nể trọng. Sau khi trúng những kỳ thi tuyển khó khăn, đỗ, ra làm quan cai trị dân là họ hoàn tất nhiệm vụ của mình. Dưới thời Pháp thuộc, giai cấp quan lại bị mất uy tín vì sa vào vòng thối nát hối lộ, mất đi cái hào quang xưa, trở thành cái bia cho báo chí và quần chúng chế giễu, phỉ báng. Nhưng lớp trí thức mới được đào tạo từ những trường hay đại học Pháp, lại nhận được di sản kính trọng mà những thế hệ xưa đã từng vinh dự được hưởng. Thêm một sự kiện mới nữa: Những trí thức tân học đích thực này đã tiếp nhận tinh thần dân chủ Pháp thoát thai từ cách mạng 1789. Họ không xa lạ gì với những quyền tự nhiên của con người.
 Thưa đồng chí Tổng bí thư, cái nguy hiểm là ở chỗ đó: Con trùng dân chủ và nhân quyền đã thấm vào máu, nhất là tầng lớp quan lại xuất thân từ đại học Luật mới mở những năm gần đây. Dĩ nhiên có người vẫn còn chịu ảnh hưởng truyền thống cũ, có người là nạn nhân những di tật người trước để lại, nhưng trong đáy lòng họ, vẫn le lói ngọn lửa dân chủ". (Trang 63-64-65)

Trước những phân tích sáng suốt và minh bạch của Năng, Tổng Bí Thư hơi ngỡ ngàng:

- Tuy nhiên họ đều phục tùng cách mạng cả và họ đã phục vụ những lãnh đạo biết khai thác kiến thức và khả năng của họ. Họ đã giúp Đảng trong việc khởi thảo chế độ mới và xây dựng nhà nước Việt Nam mới, đứng trong hàng ngũ những nước dân chủ nhân dân.
- Xin đồng chí Tổng Bí Thư đừng nhầm! Nếu những người mà chúng ta nói ở đây quy phục cách mạng, là bởi vì họ bị lôi cuốn theo cái đà dân tộc để phá vỡ guồng máy bóc lột của thực dân và để phục hồi nền độc lập cho xứ sở. Tôi tin rằng không một ai chiến đấu trong hàng ngũ chúng ta không biết rằng, một khi độc lập rồi, chúng ta sẽ dừng lại ở đấy mà không tiếp tục tiến lên con đường cộng sản; con đường này ít người biết rõ những yếu tố cơ bản, ngay cả những người có học. Những kẻ xấu miệng nói thẳng rằng chúng ta bịp bợm. Nhưng có hề gì? Chúng ta không thể cứu kẻ không muốn cứu.
- Trong thâm tâm tôi thường tự hỏi rằng Hồ Chí Minh đã đem dân tộc bước qua con sông được xem là biên thùy của cộng sản; nhưng con người, nhân cách và cuộc đời của bác vẫn còn là một bí mật mà Lịch sử sẽ phải giải quyết. Là con quan, trong tuổi thơ và tuổi thanh niên, bác đã nhận được một nền giáo dục cổ truyền của nhà nho. Những người yêu nước mà bác có dịp gần cận ở Paris lại chẳng có gì là cộng sản. Vậy bởi con đường bí mật nào mà ân sủng cộng sản đã đến với bác? Những kẻ hoài nghi cho là một phép lạ. Nhưng Đảng không hoài nghi niềm tin cộng sản của bác. Còn về phía kia, nhân dân vẫn luôn luôn tin vào khía cạnh truyền thống của bác. Về phần bác, bác cũng không làm gì để soi rõ bí ẩn này. Bên này hay bên kia đều bám vào định kiến của mình và vị lãnh tụ chơi và thắng trên cả hai bình diện. Điều lạ lùng là cả hai phía, thay vì đâm chém nhau, lại hoà hợp trong việc thờ phụng người anh hùng và còn tô vẽ thêm huyền thoại nữa.
- Hồ chủ tịch dường như đã thực hiện được sự đồng nhất hai cái tương phản: Trí thức và quần chúng gặp nhau trong cùng một sự tôn sùng. Nhưng nếu nhân dân cùng bước sau Đảng, bầy tỏ lòng tin vào chủ nghiã cộng sản, thì tự hỏi những người trí thức trong tận đáy lòng họ có chia sẻ niềm tin của nhân dân đối với chủ nghiã cộng sản hay không? Hay là thái độ của họ chẳng qua chỉ là vì sợ bị ngược đãi và bị khai trừ. Điều khiến chúng ta cần đặt vấn đề, là họ bị nhiễm độc con trùng dân chủ và các quyền tự nhiên của con người. Tôi không tin họ có thể chấp thuận vai trò lãnh đạo của giai cấp thợ thuyền; chấp nhận Đảng lãnh đạo Nhà nước và tất cả mọi hoạt động kinh tế của xứ sở; chấp nhận Đảng sử dụng độc quyền chính trị, loại hết những tổ chức khác; chấp nhận Đảng đảm nhận lãnh đạo hành chính và luật pháp, cả các địa hạt văn chương, văn hoá, nghệ thuật!
- Dĩ nhiên rồi, thử nhìn lại toàn thể những phản đối mà bọn trí thức nuôi dưỡng chống lại chúng ta, là ta thấy họ không cam chịu quyền lực tuyệt đối mà Đảng nắm giữ không chia cho Nhà Nước và Chính Phủ trong sự phức tạp của phân quyền: hành chính, luật pháp, kinh tế, giáo dục, văn chương và nghệ thuật.
Tệ hơn nữa, chúng ta đã triệt hạ cá nhân và thay thế bằng tập thể, chúng ta đã ban hành sắc lệnh bãi bỏ sở hữu cá nhân để thay bằng sở hữu tập thể.
Chúng ta đã đưa giai cấp thợ thuyền lên cầm quyền thay cho trí thức bị truất địa vị cao quý và bị lột vòng nguyệt quế trước quần chúng.
Chúng ta đã hoàn thành sự nghiệp cách mạng, không chỉ trong cấu trúc xã hội mà còn trong cả việc cấu trúc lại trí tuệ và các hoạt động trí óc của con người. Dù muốn dù không, chúng ta đã phá sập nền móng suy nghĩ và hành động theo lối truyền thống và tổ chức lại trên những nền tảng mới. Vậy sự chống đối của tầng lớp trí thức là tất nhiên. Sở dĩ họ chưa bùng nổ lòng thù hận chống lại cộng sản, và tung ra những cuộc xung đột làm hại trật tự công cộng và an ninh xã hội, là chỉ vì họ sợ bị rơi vào nanh vuốt của công an và pháp luật. Vậy chúng ta đã hiểu tại sao bọn trí thức lại cứ bo bo thận trọng ngậm miệng; sự khôn ngoan khuyên họ đừng biểu lộ mạnh mẽ, nên thận trọng từ tốn, nên tuân theo quy lệ. Đảng bị dồn vào một vị trí khó khăn: Đảng không thể hoá cải những trí thức này về với Đảng, mà cũng không thể trừng phạt họ vì thiếu vắng tất cả mọi hành động phá hoại.
- Thưa đồng chí Tổng Bí Thư, đồng chí đã nhận thấy rằng bức tường yên lặng mà bọn trí thức ẩn náu chỉ là cái pháo đài phòng thủ, do sự bi quan của những kẻ chiến bại xây dựng, để che chở khỏi cuộc tấn công không ngừng của chủ nghiã cộng sản vinh quang, rạng ngời ánh sáng. Thưa đồng chí Tổng Bí Thư, chúng ta sẽ phải chọn con đường chính trị nào đối diện với sự kháng cự mãnh liệt này? Ở đây, thật không có nhiều khả năng lựa chọn. Chính trị bị đặt trước một giao thế duy nhất: hoặc là để nguyên sự việc như vậy, cứ kéo dài tình trạng này, hoặc là thi hành biện pháp mạnh, tức là trừng phạt những kẻ mà chúng ta coi là thủ phạm, kẻ thù của chế độ, những kẻ khả nghi có manh tâm đối lập, cho chúng một bài học đích đáng.
- Đồng chí có đo lường trước hậu quả của một sự biểu dương thái độ như thế, tiếng vang của nó trong xã hội và trong quần chúng ra sao, bởi vì ta chưa kiếm ra được tội gì cụ thể của bọn người mà ta sẽ trừng phạt. Không lẽ lại buộc tội sự im lặng!
- Đồng chí Tổng Bí Thư hoàn toàn có lý. Chúng ta tự hào là một dân tộc văn minh, có toà án, có luật hình sự, không thể kết án mà không có bằng chứng! Vì vậy ta sẽ giăng mưu cho bọn trí thức rơi vào bẫy khiến chúng không thể thoát được. Đó là một thủ đoạn quỷ quyệt, nhưng cứu cánh biện minh cho phương tiện! Hiện tôi chưa thấy rõ ràng, nhưng đại thể là ta quyến rũ chúng bằng miếng mồi dân chủ, làm chúng vấp ngã trong cái lưới to đặt trên hố bẫy hổ, chúng ta chỉ việc tóm lấy và đeo còng cả bọn!" (Trang 63- 64-65- 67).

Người cộng sản dưới mắt người trí thức

Sau những bàn bạc giữa Năng và Tổng Bí Thư về một chiến lược đối đầu với trí thức, Nguyễn Mạnh Tường quay ống kính về phía trí thức: Một đêm, Hiên và Đắc, bí mật gặp nhau để bàn về khẩu hiệu "Trăm Hoa Đua Nở" vừa được ban hành ở Trung Quốc và ngọn gió đang thổi đến Việt Nam. Hiên thận trọng nói:

- Rút từ những kinh nghiêm quá khứ chúng ta phải rất thận trọng với tất cả những sản phẩm nhập cảng từ nước Tầu. Nhưng việc đầu tiên là phải phân tích cái khẩu hiệu này để liệt kê nội dung và hậu quả của nó.
- Công thức này riêng tôi thấy quá sáng tỏ. Còn có nghiã gì ngoài sự tự do để cho trăm hoa đua nở, để mọi người cất cao tiếng nói, khác hẳn thời tự do bị bịt miệng đã qua.
- Mới nhìn thì anh có vẻ có lý. Nhưng chúng ta đừng vội kết luận rằng tự do và dân chủ đã toàn thắng. Trước hết, Đảng có đủ thẩm quyền cấm trăm hoa đua nở không? Có chứ! Đảng chỉ việc cấm trồng hoa. Vậy mà bây giờ Đảng lại cho trồng hoa, nhưng Đảng không thể cấm hoa nở, Đảng bắt buộc phải chấp nhận trăm hoa đua nở. Vậy cái việc cho phép trồng hoa và để cho hoa nở này có nghiã gì? Rất có thể chỉ để tuyên bố công khai rằng Đảng không còn là kẻ thù của cái đẹp dưới tất cả mọi hình thức và tất cả sắc thái của nó, chăng?" (Trang 68).
Rồi Hiên tiếp tục đi sâu vào mọi khía cạnh của vấn đề, và cuối cùng, Hiên kết luận:
"Theo quan điểm của tôi, mỗi chế độ có những phần tử bất hảo mà họ muốn loại trừ. (...) Nhưng những kẻ trú ẩn trong im lặng khó có thể dò ra được. Sự im lặng mà họ bo bo gìn giữ, che chở cho họ hữu hiệu chẳng khác gì chiếc áo đỡ đạn chống lại bọn trộm cướp. Nay, phương tiện duy nhất làm họ bỏ cái vỏ này là gãi trúng chỗ ngứa. Bay khao khát tự do ư? Ta sẽ giải khát cho bay bằng cách cho tự do sáng tác. Tụi bay muốn chơi trò chính trị ư? Thì cứ chơi! Ta cho chúng bay mặc sức diễn thuyết những xác tín và những chương trình hành động của bay bằng máy phóng thanh... Đó là cái bẫy ta giương ra cho bọn ngây thơ tin vào lòng ngay thẳng và sự thành thật của chính quyền cộng sản. Một khi tụi bay đã tự phát giác bản chất, lộ diện cái trần truồng mà trước đây được im lặng che đậy, thì dễ như bỡn, ta sẽ làm cho tụi bay bất động mãi mãi trong cõi  yên lặng đời đời!" (Trang 68-69).

Sau khi "đọc" rõ tư tưởng của Năng và Tổng Bí Thư, Hiên phân tích hành trình và tâm lý những người cách mạng:

"Điều đầu tiên mà mọi người đều biết là sự thất học mà những người cách mạng phải chịu thiệt thòi. Thiếu điều kiện để học hành tới nơi tới chốn, những người vô sản Việt Nam đói khổ vô cùng, khi không có cơm ăn, làm sao có thể học được? Con đường duy nhất mở ra trước mắt là làm cách mạng. Những người may mắn nhất, trải muôn nghìn hiểm nguy, xuyên rừng, leo núi, chắp nối được với vô sản Trung quốc đang tranh đấu chống tư sản. Vậy nhận xét đầu tiên là người cách mạng Việt Nam đau bệnh vô học! Hậu quả của tình trạng này như thế nào?
Lẽ dĩ nhiên, họ không thể đọc những kinh điển Mác-xít, Lê-nin-nít trực tiếp qua văn bản, nên phải học lỏm nhờ sự sốt sắng của những người có khả năng, nhưng những người này cũng không đủ kiến thức để hiểu những vấn đề vô cùng đa dạng và phức tạp. Dầu sao đi nữa, những bí mật của thuật cai trị con người thoát khỏi tầm tay của họ. Kinh nghiệm cho thấy những người mắc bệnh mặc cảm thường bị cả tự ti lẫn tự tôn, hai mặc cảm bổ sung cho nhau, tiếp sức cho nhau, là hai mặt của cùng một trạng thái tinh thần. Người cộng sản vô học tự cảm thấy bị tổn thương khi tiếp xúc với người trí thức có văn hoá. Nhưng một khi lấy lại toàn bộ địa vị bề trên của mình, vị thủ lĩnh lập tức giáng đòn sấm sét của quyền lực xuống những kẻ bị nghi là thiếu kính trọng đối với ông ta.
Vì thế, sau những hiểu lầm bi đát phát sinh từ những thành kiến vô lý, cộng sản thù ghét trí thức. Người cộng sản tưởng tượng rằng người trí thức khinh bỉ họ vì họ không có học. Người trí thức thì tin rằng người cộng sản say sưa quyền lực chỉ tìm cách tỏ sự chuyên chế bạo ngược của họ để củng cố và bảo tồn quyền lực của mình. Theo chỗ tôi biết, không có một cuộc đàm luận nào được tổ chức để hai phiá nhìn rõ mặt nhau, cùng giải thích, để hiểu nhau và sau đó, cùng cộng tác cho sự tốt đẹp của đất nước. Đó là một giấc mộng đẹp, và như tất cả các giấc mộng, không thể thực hiện được. Chướng ngại vật là dân chủ. (Trang 70).
 
Lý do thành lập Nhân Văn Giai Phẩm

Đắc tiếp lời:

- Như anh vừa nói, chúng ta là một bọn mưu phản. Một nhóm trí thức âm mưu đòi dân chủ. Ở nước khác, những cuộc hội thảo trí thức hay ý thức hệ được tổ chức giữa ban ngày, hoặc trên báo, hoặc trong những buổi họp mặt công cộng. Ở nước ta, sự cấm đoán đè nặng lên người trí thức, chính quyền chỉ chấp nhận một thái dộ duy nhất: quỳ gối, cúi đầu, ngậm miệng. Tất cả mọi tiếng nói cất lên cùng đồng thanh nhất trí hô khẩu hiệu trung thành với Đảng. Trong điều kiện đó, người cầm quyền có thể yên vị trong hạnh phúc và hô hoán với bàn dân thiên hạ rằng ở Việt Nam tất cả đều VÌ dân, DO dân! (POUR le peuple, PAR le peuple!) Quần chúng thì quỳ mọp tung hô: Đảng thắng lợi! Đảng muôn năm! (...) Vậy ta thử hỏi: cái gì DO dân làm? Tất cả những biện pháp lập hiến và hành chánh, tất cả những quyết định, những nghị quyết mà dân chúng phải thi hành, không do người dân làm ra, mà do những cơ quan, những hội, những viện, mà TẤT CẢ mọi thành viên đều là cộng sản hoặc phục tòng cộng sản và áp dụng triệt để mệnh lệnh của Đảng. Vậy làm sao ta có thể chấp nhận rằng tất cả đều DO dân làm mà không khỏi chau mày? Đó là sự dối trá hiển nhiên, vô liêm sỉ, chỉ được chấp nhận bởi một số nhỏ những kẻ yếu tinh thần say sưa ảo tưởng về Đảng hoặc hy vọng được Đảng nhận làm đầy tớ.
-Vậy thì phải làm thế nào? Hiền hỏi.
- Chúng tôi thành lập một nhóm nhỏ trí thức trong đó có vài người trong đảng. Không phải để tranh đấu đánh đổ chế độ, mà chỉ để đạt được một số cải cách giúp mọi người dễ thở hơn. Mặc dù mục đích khiêm nhượng - ít nhất dưới mắt anh em- chúng tôi làm theo cách của cộng sản: nghiã là trong bóng tối. Chỉ gặp nhau hai người một, không bao giờ ở trong nhà vì những bức tường thường có tai mà ở công viên hoặc trên vỉa hè thành phố. Dĩ nhiên là không có ủy ban lãnh đạo, và trong túi hoặc trong nhà không để tài liệu gì có thể phương hại đến bản thân.
- Bây giờ tôi hiểu rồi. Vậy tôi có thể làm gì giúp các anh?
- Anh là một trí thức tầm cỡ: anh có văn hoá cao, lại không màng đến tiền bạc và vinh dự, sự liêm khiết của anh, phẩm cách của anh đã nổi tiếng trong đám chúng ta. Anh em hân hạnh muốn biết ý kiến của anh đối với những vấn đề mà anh em đang xao động. Anh nghĩ sao về chế độ mà chúng ta đang sống?
Hiền im lặng trầm ngâm một lúc rồi trả lời:
Nếu lưu tâm đến thực tế cụ thể đang quy định đời sống dân tộc và quan sát kỹ càng, chúng ta có thể nhận thấy rằng chế độ này có ba tính cách đặc thù:
1- Cá nhân chủ nghiã bị hạ bệ và khai trừ. Tập thể lên ngôi và làm bá chủ trong tất cả mọi lãnh vực hoạt động.
2- Đảng đảm nhiệm chỉ đạo và điều khiển tất cả.
3- Chúng ta sống trong sự vắng mặt của tất cả mọi thứ tự do đương nhiên và quyền con người.
Vậy sẽ rất bổ ích nếu chúng ta khảo sát từng tính chất một và phân tích giá trị của nó. (Trang 70-71)
 
Cá nhân và tập thể

Để giải thích sự xung đột giữa những cặp phạm trù: Cá nhân và tập thể, Trí thức và cộng sản, Hiên nhắc lại sự xâm nhập cá nhân chủ nghiã vào Việt Nam:

"Trước tiên, phải công nhận rằng cá nhân và cá nhân chủ nghiã không phải là sản phẩm Việt Nam mà được nhập cảng từ Pháp, nó phát sinh từ cách mạng 1789.
Trong xã hội cổ truyền của ta, tập thể gia đình ngự trị. Tất cả mọi thành viên trong gia đình sống chung dưới một mái nhà, cùng làm việc trên một mảnh đất, ăn chung mâm cơm. Kết quả nẩy sinh một sức mạnh chung là tổng hợp những sức mạnh của mỗi cá nhân trong gia đình mà sợi dây liên lạc máu mủ cùng lợi ích vật chất và kinh tế không bị lỏng lẻo, suy yếu.
Cá nhân chủ nghiã, dù được nhập cảng, đã đến nước ta từ khi Pháp xâm chiếm; bởi vì nó thúc đẩy và kích động sản xuất, bởi vì nó tác động trực tiếp tới lợi ích cá nhân, tới tính ích kỷ của người lao động cho nên nó kích thích mọi cố gắng (...)
Vì vậy, khi chính quyền Pháp đem kinh tế thị trường vào cùng với chủ nghiã kinh tế cá nhân, hệ thống mới này chinh phục ngay xã hội ta, vì nó biểu hiệu một mô hình hoạt động vô cùng cao hơn hệ thống hiện hành. Những thành phố sinh sôi nẩy nở, kinh tế thành thị mở rộng tiểu công nghệ, tiểu sản xuất kỹ nghệ và thương mại.
Trong điều kiện mới này, sự sản xuất nông nghiệp trong kinh tế nông thôn suy đồi dần, tập thể gia đình bị giải tán. Con cái bỏ cha mẹ lên tỉnh làm việc, và không có gì ngạc nhiên khi thấy cá nhân chủ nghiã tiến những bước khổng lồ." (Trang 72)

Trở lại vấn đề văn hoá, Hiên nói tiếp:

"Văn hóa là tinh chất của cá nhân, nó ưu đãi sự nẩy nở cá nhân chủ nghiã nơi người trí thức. Trong thời phong kiến, mẫu người có văn hoá điển hình là ông quan cai trị. Nhưng ông ta được tôn kính không phải vì chức năng mà vì sự học rộng, vì cái nhã độ trong phong cách, vì sự lịch lãm trong ngôn ngữ và sự minh triết trong cách xử thế của ông ta.
Khi kinh tế thực dân ngự trị đất nước, điều khiển những phương tiện sản xuất và bất động sản tư nhân, thì cá nhân chủ nghiã thắng lợi trên mọi phương diện. Những người trí thức tân tiến mà văn hoá đã cá nhân hoá trí tuệ, chễm chệ trong tiện nghi của căn nhà mới. Tuy nhiên, nhờ sự tự trọng và trọng danh dự, họ giữ vững được lương tri của mình và tôn trọng ý thức quần chúng, cộng thêm cái uy tín của sự hiểu rộng, người trí thức vẫn được quần chúng tôn thờ.

Và Hiên kết luận:

Vấn đề trọng đại của nước ta và dân tộc ta là vấn đề xung đột giữa văn hoá và chính trị.
Sự xung đột này có thật và hiện hữu, phải liệt kê những lý do phát sinh. Mặc dù trí thức được vinh danh trong xã hội phong kiến, chế độ cộng sản đã quay ngược tình thế và tìm cách trói họ vào cột bêu đầu tội phạm, để công chúng nguyền rủa; trách họ không tha thiết đến số phận của người dân, chui đầu vào những thú khoái lạc dâm ô, tự khép kín trong những tháp ngà mà cảm khoái nghệ thuật ngăn cản không cho họ nghe thấy tiếng thở than của lớp người cùng khốn. Sự hủ bại sâu xa của người trí thức, là do cá nhân chủ nghiã, nó đã giới hạn tầm nhìn của con người, đã ngăn chặn họ thừa nhận sự hiện diện của quần chúng bình dân, của tập thể lao động vất vả ngày đêm để đảm bảo tiện nghi đời sống. Cái cá nhân chủ nghĩa của bọn trí thức đáng bêu thây, xỉ nhục.
Nhưng chiến dịch phỉ báng những người có văn hoá cũng chỉ kéo được một số trí thức khốn khổ, bị sợ hãi và tham vọng bám riết, tới quỳ mọp dưới chân chính quyền, còn phần đông đều giữ vững quan điểm, giữ được sự tôn trọng và quý mến của quần chúng thành thị". (Trang 74-75)

Hiền nói tiếp:

 "Theo tôi, người cộng sản thấy người trí thức là đại diện quan trọng nhất, đủ tư cách nhất, thậm chí là hiện thân của chủ nghiã cá nhân. Thế mà chúng ta lại biết rằng chủ nghiã cá nhân là đối cực của chủ nghiã cộng sản, giữa hai thực thể này đã có cuộc đấu tranh quyết liệt chỉ ngừng khi một bên bị triệt hạ hoàn toàn. Mọi người cũng lại biết rằng người trí thức không thể chịu được bất cứ sự hỗn tạp, chung lộn nào, bởi chung lộn là bắt buộc phải chung đụng với những phần tử mà mình không thích. Một mặt khác, người trí thức cho rằng cái xác định con người, là nhân cách riêng của nó: mỗi cá thể là một nhân cách. Con người thay đổi và có nhiều mặt [Nguyễn Mạnh Tường lấy lại câu: L'homme est ondoyant et divers của Montaigne] chính tính cách đa diện là dấu ấn đặc biệt của con người. Chúng ta đã thấy dưới thời phát xít Hitler và Mussoloni, khi những thực thể sống động là con người phải mặc cùng một loạt đồng phục, cùng bước một nhịp, cùng hô một khẩu hiệu, cùng có một cử chỉ, thì những thực thể ấy đã trở thành người máy, sự tự động đã thay thế cho sự biến đổi, máy móc thay thế cho đời sống! Nhưng cuối cùng, không ai thành công trong sự máy móc hoá dân tộc mình mãi mãi.
Hơn nữa, sự thù nghịch của cộng sản đối với trí thức còn được giải thích bằng sự gắn bó không thể tiêu diệt (l'attachement indéfectible), không thể khước từ (irréfragable) của trí thức đối với những giá trị dân chủ. Vậy từ đâu mà có sự gắn bó này?
Là bởi vì, trong mối song quan (dilemme): chính quyền-dân chúng, không một người trí thức nào lựa chọn chính quyền, trừ phi họ bị những tham vọng đê tiện dẫn dắt. Ta đứng về phía dân chúng bởi vì chính ta là người dân. Chế độ dân chủ cho tới bây giờ là hình thức chính quyền duy nhất thực hành công bằng và công lý, làm việc cho dân. Uy tín của chế độ này đã khiến chính những chế độ cộng sản cũng không ngừng tự xưng mình là dân chủ, là làm việc cho dân! (Trang 77).

Trí thức và cộng sản: ngày và đêm

Đào sâu hơn nữa vào sự xung đột giữa cộng sản và trí thức, Hiên nói tiếp:

"Sự xung đột giữa đôi bên không thể giải quyết được bởi vì nó đụng tới bản chất và lý do tồn tại của chủ nghiã cộng sản. Thực thế, hai quan niệm về đời sống và về con người, chống nhau trong một sự kình địch chỉ có thể biến mất khi chế độ cộng sản xụp đổ!
Trước hết, chủ nghiã tập thể đặt nền móng trên một quan niệm toán học về con người. Theo đó, con người không là gì cả, chỉ một con số trừu tượng, có thể thay người này bằng người kia, hệt như một người lính thuộc quân số của một đơn vị nhà binh dưới mắt người chỉ huy. Tên, tuổi, trọng lượng, tầm vóc, của mỗi người không quan trọng gì, chỉ có tổng số lính là đáng kể! Thế mà cá nhân chủ nghiã lại nhấn mạnh đến chất lượng của cá thể, tức là những dấu hiệu đặc thù phân biệt người này với người kia trong cùng một chủng loại và tuyên bố mỗi con người là một thực thể khác nhau.
Chủ nghiã tập thể, không tha thiết gì đến con người và từ chối sự khác biệt giữa người và người. Con người được chính quyền tạo ra để sử dụng, đã gây tổn thất nặng nề cho cá nhân, yếu tố mà tập thể không thèm biết đến sự hiện hữu.
Ngược lại, cá nhân chủ nghiã đưa con người lên mức quan tâm hàng đầu. Con người tự lấy mình làm cứu cánh, không phải là phương tiện để phục vụ bất kỳ một cái gì. Cây người phải được vun trồng cho nở hoa và đơm trái. Để đạt tới mục đích này, cần phải học, phải biết rõ con người, biết tất cả những dấu hiệu khác biệt của nhân cách qua những yếu tố tối giản của cá tính.
Vì vậy, chủ nghiã tập thể và chủ nghiã cá nhân đối nghịch như ngày với đêm: có cái này thì không thể có cái kia: hai bên không bao giờ gặp nhau. Chủ nghiã cộng sản tập thể không bao giờ hiểu được chủ nghĩa cá nhân của người trí thức.
Dân chủ là chiến trường thứ nhì giữa trí thức và cộng sản. Ở thời điểm người cộng sản tranh đấu bí mật, họ dựa trên dân, nhờ dân nuôi dưỡng và che chở khỏi sự lùng bắt của mật thám. Từ khi lên nắm chính quyền, họ luôn luôn cam đoan trung thành đối với những ân nhân xưa, tuyên bố nguyện ước tranh đấu cho dân và làm tất cả vì dân. Nhưng đó chỉ là những lời hứa hão và cái hố càng ngày càng đào sâu giữa người dân và chính quyền cộng sản. Người trí thức, từ lòng dân tộc mà ra, tự cảm thấy mình có sứ mệnh dân chủ.
Người cộng sản khi lên cầm quyền, từ chối thay đổi khẩu hiệu, tiếp tục tuyên bố: Vì dân. Do dân. Nhưng cái dân tộc mà họ vin vào đó, biết rõ hơn ai hết rằng chẳng có cái gì do dân làm cả, lý do hiển nhiên là dân không có quyền bầu những đại biểu của mình trong chính quyền và vì vậy dân không có quyền biểu quyết những chính sách được áp dụng ở trong nước. Quốc hội và tất cả những cơ quan cầm quyền, trong mọi lãnh vực hoạt động, đều tràn đầy cộng sản, từ ủy ban chỉ đạo tới ủy viên bình thường, không có một cái gì làm ở trong nước mà không qua sự chỉ đạo và kiểm soát của những người cộng sản hoặc những người sắp vào đảng, họ đánh nhau để chiếm chỗ, ra sức ngoan ngoãn, dễ bảo, tận tụy với Đảng. Biểu thức "Do dân" vì vậy không có ý nghiã gì.
Trực diện với độc quyền mở vào con đường lộng hành, bất công, bất bình đẳng và những đàn áp đủ mọi hình thức, giấc mơ duy nhất để an ủi là quay về với dân chủ (...)
Những người trí thức bị nghi ngờ nuôi dưỡng hy vọng dân chủ trong lòng, bị coi là những kẻ thù của chế độ. Để cấp cho những hình phạt mà họ quyết định ở toà án một cái bề ngoài hợp pháp, những kẻ cầm quyền trở thành luật gia ngẫu hứng, bịa ra một tội ác không có ở bất cứ bộ luật nào, là tội "phản động". Tất cả mọi người trí thức không chia sẻ đường lối cộng sản đều bị coi là "kẻ phản động" và bị giáng từ 10 đến 20 năm tù. Những quyền tự do cơ bản và nhân quyền, phản ảnh kích thước văn minh của một nước bằng sự đề cao danh dự và phẩm cách con người, không được biết đến ở Việt Nam. (Trang 80-81)
 
Đảng xã hội và đảng dân chủ

Nguyễn Mạnh Tường, thành viên của đảng Xã hội, xoay ống kính vào hậu trường chính trị của sự ra đời và xoá sổ hai đảng Xã hội và Dân chủ. Năng được triệu tập đến dinh Tổng Bí Thư, để bàn về việc dẹp hai đảng xã hội và dân chủ, đã được dựng nên trong thời kháng chiến. Đầu tiên hết, Tổng Bí Thư giải thích nguồn cội sự ra đời của hai đảng để Năng nắm rõ tình hình:

"Như đồng chí đã biết, Đảng ta đã lập ra đảng xã hội và đảng dân chủ. Đảng xã hội dành cho bọn trí thức và đảng dân chủ dành cho bọn tư sản. Đồng chí cũng biết rằng Đảng không làm điều gì mà không cân nhắc kỹ. Những người mác-xít cố chấp có thể trách ta đã xây dựng những đảng phái sai trật hẳn với quan niệm mác-xít của một đảng chính trị.
Rằng hai đảng này không đáp ứng đúng đòi hỏi mác-xít, chúng ta xin lỗi, nhưng ta có cái lý của ta. Trước Cách mạng, trường Pháp đào tạo ra nhiều thế hệ trí thức đã theo ta trong kháng chiến. Nhưng trong 10 năm kháng chiến, trường Pháp còn đào tạo thêm những thế hệ trí thức khác. Khi trở về Hà Nội, một số đã bỏ ta, đi làm, đi học ở nước ngoài. Đối với những kẻ ở lại, ta không thể bỏ rơi họ. Trước hết, vì lợi ích của chính họ, giúp họ theo kịp những tiến bộ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của ta. Sau nữa, khi trở về Hà Nội sau mười năm kháng chiến, ta vấp phải một tầng lớp dân chúng đã quá quen nghe nói đến tự do và nhân quyền; vì không muốn lộ bộ mặt chậm tiến, nên ta phải nói cùng thứ ngôn ngữ với bọn thực dân Pháp cũ. Ta phải giả đò tôn trọng quyền của người dân được xây dựng những đảng phái chính trị để bảo vệ quyền lợi của họ. Sau cùng, về mặt đối ngoại, chúng ta phải bảo đảm với dư luận thế giới, về những tự do chính trị mà chúng ta sẽ cho dân hưởng sau khi người Pháp đi khỏi. Nhưng dĩ nhiên là dưới cái bề mặt phỉnh gạt ấy, chúng ta không thể mất cảnh giác, mà phải tiếp tục điều khiển hai cái đảng mà chúng ta gọi là "anh em" từ lúc mới dựng chúng nên và trong suốt thời gian chúng còn hoạt động. Ta đã khuyến khích một vài trí thức nổi tiếng cái ý lập hai đảng. Vậy là dưới sự thúc đẩy của ta và nhờ sự cố vấn của ta mà hai cái đảng này được khai sinh trong đời sống chính trị và chập chững bước đầu. Chính ta cấp ngân quỹ cho hai đảng anh em. Chính ta đã gài trong mỗi đảng những uỷ viên chính trị có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của chúng để báo cáo kịp thời cho ta biết những chệch hướng hay những lệch lạc có thể xẩy ra, và trực tiếp truyền lệnh của ta cho chúng thi hành. Bây giờ, đồng chí hãy báo cáo cho tôi biết sự hoạt động của chúng mà đồng chí có trách nhiệm theo dõi.
- Thưa Đồng chí Tổng Bí Thư, xin báo cáo đồng chí: tình hình là lạc quan. Hai đảng anh em cư xử rất được. Những ủy viên chính trị mà ta gài vào đã làm việc thật tuyệt vời. Ngay khi đến, họ đã biết kết hợp cương với nhu, họ đã làm cho hai uỷ ban trung ương và hai chủ tịch của hai đảng này hiểu rõ rằng không có một văn kiện chính thức nào - diễn thuyết, thông điệp, tuyên ngôn, diễn văn khai mạc hay bế mạc - có thể được ký mà không qua ý kiến của họ. Không có một cuộc trả lời phỏng vấn nào mà không có họ chứng kiến. Bọn kia tuân thủ răm rắp. Hai tên tổng bí thư cũng như toàn thể đảng viên của hai cái đảng này đều là kháng chiến cũ. Chúng đã được giáo dục tốt. Không màu. Không mùi. Vô hại. Có miệng nhưng câm như hến. Tránh liên quan. Cung kính tuyệt đối trước lãnh đạo! Đối với chúng, ta có thể yên tâm ngủ khò.
Nhưng tôi có bổn phận phải báo cáo đồng chí Tổng Bí Thư cái mặt trái của mề đai. Trước hết, số đảng viên quá ít. Ngoài phố họ cười ầm lên, mỗi đảng không được một trăm mống! Điều bất hạnh là trong cái đảng xã hội mệnh danh "trí thức", chỉ có độ mươi mống trí thức chính hiệu! Chỗ còn lại là giáo viên tiểu học, thợ thủ công, cán bộ hạng xoàng, được đưa vào để gồng số đảng viên. Trong cái đảng dân chủ, số tư sản có chút vốn chỉ độ hai, ba mạng, phần còn lại toàn bọn buôn bán lẹt đẹt, cán bộ tép riu. Để được vào hai đảng này, chỉ cần xuất trình phẩm trật kháng chiến!
Bọn chúng được cấp giấy hạnh kiểm tốt, chứng nhận tận tụy với Đảng cầm quyền mà chúng khoe là "anh em". Uy tín của chúng đối với quần chúng là zê-rô, chúng cũng chẳng có ảnh hưởng chính trị gì, mặc dù những tên cầm đầu vênh vang trên ô tô nhà nước và trong những buổi hội họp công cộng, chúng được nhận những chức vụ mà ta dùng cho lãnh đạo Đảng ta, nhưng của chúng chỉ để gáy. Đúng là một vở tuồng mà ta cho chúng diễn và chúng đóng trò hề này rất cần mẫn chăm chỉ. Mặc tất cả những cung kính mà ta dành cho chúng trong những lễ nghi chính thức, những kẻ xấu miệng vẫn gọi chúng là con rối, là bù nhìn, họ kêu ầm lên: "Giễu! Sao Đảng chẳng chọn những diễn viên khôi hài hơn, dệt những con rối tức cười hơn để giải trí!"
- Nếu chúng ta quyết định dẹp hai cái đảng này và ra sắc lệnh chấm dứt trò hề, đồng chí có thấy bất tiện không?
- Nếu được phép nói thật, tôi sẽ thú thực với đồng chí Tổng Bí Thư rằng xây dựng một cái đảng đã là tế nhị, mà giải tán một cái đảng lại còn vô cùng tế nhị hơn. Nhất là trong hoàn cảnh hiện thời! Dù bọn nhà trò có giễu dở đến đâu, dù vở tuồng có nhạt nhẽo thế nào, công chúng đã có thói quen xem chúng múa may trên sân khấu, chơi trò hề và làm phụ diễn hài hước cho khán giả cười bể bụng. Không hiếm người than phiền chế độ ta hà khắc bởi chính trị len vào khắp cả và cơ hội được cười thả cửa quá hiếm. Hai đảng "anh em" bộ điệu nghiêm trọng không hề nao núng, chấp hành hết sảy công tác nhái mà ta dạy, kích thích khán giả phì cười, nhưng trước bàn dân thiên hạ, mọi người lại phải ôm bụng nhịn, về nhà mới dám xả láng với bà con bè bạn.
- Những lời đồng chí vừa nói khiến ta càng dứt khoát quyết định không làm trò hề cho thiên hạ nữa. Thực ra, Đảng cũng ớn việc cứ dơ sườn ra cho chúng chế giễu, nhạo báng làm mất uy tín. Chúng ta rất nhạy cảm với sự châm biếm và không gì làm chúng ta đau lòng hơn là thấy quần chúng giễu ta và những nhân vật chỉ có một tội ác duy nhất là đã vâng mệnh ta một cách dễ bảo không ngờ, thậm chí bất ngờ! Khi ta hạ màn, trả họ về với những bận rộn hàng ngày, phẩm giá của những người "anh em" đã sốt sắng tự hạ mình để phục vụ ta, sẽ đỡ bị sứt mẻ và Đảng ta sẽ lấy lại được cái uy tín mà những sai phạm đã ít nhiều làm tổn hại.
Ngoài ra, như đồng chí cũng đã biết, gần đây ở một vài nước châu Âu đã bắt đầu có mầm mống phong trào đa nguyên. Bổn phận của chúng ta là phải trang bị một ý thức chính xác về mối nguy cơ này cho Đảng.
 Lấy cớ rằng mỗi đầu người có một ý kiến, và chính sự đối chất giữa các ý kiến khác nhau sẽ nẩy sinh ra sự thật, rằng sự độc quyền một đảng, bất cứ giá trị của đảng viên như thế nào, cũng dẫn thẳng đến sự chuyên chế, độc tài; bọn chúng đề nghị chúng ta cho phát triển sự đa đảng. (...)
Chúng ta không đặt mình vào địa vị đối lập với chân lý và tiến bộ. Nhưng chúng ta từ chối làm kẻ Bị Lừa Bịp, tin lời Lường Gạt của bọn Lang Băm. Những điều mà chúng đề nghị tưởng mới mẻ gì, thực ra đã cũ mèm từ hai thế kỷ: chế độ đại nghị!
Một chế độ chính trị cũ rích.
Dưới mắt những người cộng sản chúng ta, chủ nghiã đa nguyên là một trò hề nực cười nhất. Bắt đầu bằng cuộc bầu cử. Trong đó kẻ nào chửi bới đối phương một cách hèn hạ nhất sẽ thắng, người ta sáng chế ra những dối trá nếu cần, để hạ địch thủ. Còn về chương trình hành động, người ta đua nhau ném ra những lời hứa biết trước là không thể giữ được. Có quan hệ gì ? Miễn là được bầu. Một khi đã qua cầu rồi thì không kẻ nào quay nhìn phía sau, nhớ lại những điều lường gạt đã tung ra để lấy phiếu. Cử tri giữ vai ngố rừng trong trò bịp bợm này. (...)
Làm sao một chính quyền thối nát ngay từ đầu có thể làm tròn phận sự ? Lại càng khó khăn hơn khi chính quyền này bị chia cắt làm ba: Lập pháp chiếm ưu thế, được chọn thành phần Cầm Quyền (Hành pháp), rồi tới phiên Hành pháp chọn nhân viên của Tư pháp. Đúng lô gích thì Lập Pháp mạnh thế, bởi được dân bầu trực tiếp, có quyền chỉ định thành phần Cầm Quyền. Rủi thay, quyền của họ chỉ dừng ở đó. Họ không có quyền kiểm soát hữu hiệu và thường trực hoạt động của nhà Cầm quyền, và họ cũng không có quyền hội họp hàng ngày, phải đợi được triệu tập trong những điều kiện pháp định. Về Tư pháp, người ta nhìn nhận nó có quyền độc lập khi thi hành nhiệm vụ, nhưng cũng không thể chối cãi là ngành này gồm những công chức, phụ thuộc vào nhà Cầm Quyền để được thăng quan tiến chức, vậy họ phải tìm cách ở trong ân sủng của nhà Cầm Quyền, điều này có nghiã gì, ai mà chẳng biết (...)

Thấy ông Tổng Bí Thư quá hăng hái trong việc "mô tả" chế độ đại nghị, Năng tìm cách đưa ông trở lại đề tài quan trọng trước mắt là làm sập tiệm hai cái đảng xã hội và dân chủ:

- Thưa Đồng chí Tổng Bí Thư, nếu đồng chí cho phép dùng thứ ngôn ngữ hình ảnh, tôi xin so sánh hai đảng này như hai cái nhà chòi được dựng trong hội chợ và tháo rỡ khi tan hội. Để thu hút khách xem, có một kẻ cầm loa rêu rao khoác lác những điểm lạ thường trên thân chú lùn, người khổng lồ, hoặc người đàn bà mình cây. Nhưng đám đông cứ tỉnh bơ, bởi chủ nhà chòi làm ăn dở quá.
Ngược lại, Đảng ta gợi hình ảnh một toà lâu đài vĩ đại mà nền móng thách đố sự vận chuyển nhiều thế kỷ, đầy tràn một xã hội công án hoá và một lớp hầu cận kiểu cách (personnel stylé). Ở đây ta làm tốt công việc, dưới quyền điều khiển của những xếp thông minh, nhìn suốt hiện tại đến tương lai, bước ra ngoài phạm vi lâu đài để ôm lấy toàn thể đất nước và ra khỏi bọn cư dân để đến với toàn thể nhân dân!
- Này đồng chí, ý ta muốn đạp đổ luôn hai cái nhà chòi của đảng xã hội và đảng dân chủ. Bởi chúng huỷ hoại cảnh đẹp, làm xấu tầm nhìn, gây sốc cho cảm quan. Vậy theo đồng chí, nếu hai cái nhà chòi này biến mất có làm dư luận bất bình không?
- Tôi chắc là không. Hai cái đảng này thiếu đảng viên và không có một ảnh hưởng nào trong xã hội. Dĩ nhiên ai cũng biết bọn đảng viên của hai cái đảng này vô hại, không mùi, không màu, và người ta cũng biết chúng là con hoang của Đảng ta, không ai chú ý đến sự hiện diện của chúng! Vì chẳng ai để ý đến sự có mặt của chúng cho nên cũng chẳng ai thấy sự biến mất của chúng! Nhưng tôi vẫn chưa hiểu tại sao chúng ta lại từ chối quyền sống cho hai cái đảng này? Chúng chỉ chiếm một chỗ rất nhỏ, chỉ mở miệng để hô khẩu hiệu và hót muôn năm, vạn tuế Đảng.
- Chúng ta đã phạm sai lầm khi khai sinh ra chúng và đã để chúng héo mòn không cho chúng quyền hiện hữu, không cho chúng quyền cộng tác với chúng ta, cùng làm việc cho hạnh phúc vĩnh cửu chung. Trong những điều kiện như thế, ta nhận thấy rằng hài kịch đã kéo dài quá lâu mà chẳng có lợi lộc gì cho ta và nhất là cho lũ con rối mà ta đã tạo ra! Lý do trọng đại hơn, chính là chúng ta phải hết sức cảnh giác vì trên thế giới mới xuất hiện một phong trào, dưới nhãn hiệu bảo vệ dân chủ, kích thích sự sinh xôi nẩy nở các đảng phái chính trị để chặn đứng con đường chuyên chế vinh quang của đảng cộng sản!
- Thưa Đồng chí Tổng Bí Thư, làm sao mà đồng chí không có lý cho được. Một khi những căn nhà chòi đã bị tiêu diệt, chỉ cần vài nhát chổi là xoá sạch dấu vết. Trong tất cả mọi gia đình người ta đều quên tiệt bọn con hoang. Với sự cho phép của đồng chí Tổng Bí Thư, chúng tôi sẽ tìm cách tổ chức cho chúng một đám ma trọng thể để chứng tỏ lòng ngưỡng mộ của chúng ta đối với hai cái đảng "anh em" mà sự dễ bảo xứng đáng được hưởng những lời khen thưởng của tất cả những chủ nhân ông đang thiếu kẻ hầu người hạ!" (Trang 85- 86- 86 bis- 87).

Đám ma đảng Dân chủ và Xã hội

"Buổi chiều đó, Đảng Cộng sản tổ chức tại nhà hát Hà Nội đám ma hai đảng anh em: đảng xã hội và đảng dân chủ.
Trên sân khấu, những chiếc ghế bành được dành cho chóp bu ba đảng. Khách mời bước vào nhà hát chói mắt vì sự lạm phát màu sắc: màu đỏ choé lên khắp các băng vải trúc bâu giăng trên tường, chữ vàng óng dán trên vải tán dương sự vinh quang của bộ ba mác-xít Mác - Enghen - Lênin, của chủ tịch Hồ và con đường chính trị của Đảng. Nhưng lần này, những băng-rôn cất tiếng ca tụng sự đoàn kết, tình hữu nghị anh em ba đảng. Điều thiếu nhất là không khí đưa ma, đáng lý phải làm cho cử tọa nghiêm chỉnh lên tới độ u ám đau buồn. Nhưng người ta cứ cười nói tự nhiên như không. Tất cả đều cho thấy, nếu như người ta không thích thú, thì cũng chẳng ai buồn bã gì cho cái chết của hai đảng con hoang. Mấy tay giễu dở còn tuyên bố rằng quét sạch hai đảng anh em khỏi sân khấu chính trị, chúng ta để dành được món tiền to đã trợ cấp cho chúng. Một kẻ khác chêm vào: Ôi may mắn thay! Từ nay, trong những các buổi họp công cộng cũng như trong ra-đi-ô hay trên truyền hình, ta chỉ phải chịu (trận) diễn văn của Đảng cầm quyền và được tha bổng khỏi diễn văn nhái lại của hai đảng anh em. Tổng cộng, chúng ta không phải rỏ một giọt nước mắt nào cho số phận người quá cố, ngược lại, chúng ta được cười hể hả vì thoát khỏi bọn rách việc!" (Trang 87).

Chẳng ai nghe những diễn văn chính thức, riêng các thành viên của hai đảng mới chết, ghé tai nhau thì thầm những giai thoại, những bi hài kịch mà họ đã trải qua.

 Sự kết án tử hình đảng xã hội mà đảng cộng sản là cha đẻ, là vú nuôi, không gây một tiếng vang nào trong giới trí thức Việt Nam. Nó sống hay nó chết, người trí thức cũng không mất ăn mất ngủ vì nó!
Mỗi năm, vào ngày 3 tháng 2, sinh nhật Đảng cộng sản, là ngày lễ quốc khánh. Chính quyền không ban sắc lệnh gì về việc này, nhưng tất cả các tổ chức, không loại trừ hình thức nào, dưới sự hướng dẫn của Đảng Cộng sản, đều hết sức vinh hạnh được long trọng tổ chức những buổi họp mặt để ca tụng vinh quang và thắng lợi của Đảng Cộng sản trong quá khứ và chúc mừng Đảng tương lai ngày càng sáng lạng hơn. Một cái đảng cầm đầu một dân tộc;  dân tộc này ít ra ngoài mặt, tung hô niềm tin vào đảng, quỳ mọp trước Đảng để thề nguyền lòng tin và sự trung thành, vì lợi mà cũng vì hèn, sợ bị hành hạ, bị trừng phạt dưới mọi hình thức, đó là cảnh tượng bầy ra trước mắt những người cộng sản cầm quyền. Trước thành công tuyệt vời đã đạt được, họ ngủ yên mãn nguyện vì đã thoả lòng ham muốn, đã toại nguyện ước ao." (Trang 95)

Đối thoại giữa hai trí thức thành viên đảng Xã hội

"Hai người, bác sĩ y khoa Xuân và luật khoa tiến sĩ Mạn đi từ từ xuống bậc thềm, dáng mơ mộng. Hai thành viên của đảng xã hội bị giết và chôn hôm nay trao đổi kỷ niệm với nhau.
- Anh còn nhớ thời ở Hà Nam, cách Hà Nội sáu mươi cây số trong Liên Khu Hai không? Gia đình tôi trú ngụ trong nhà một địa chủ. Tôi chữa mắt cho bệnh nhân và dạy nhãn khoa trong trung tâm huấn luyện y khoa bên kia sông Đáy.
- Còn tôi, luật sư Mạn trả lời, gia đình tôi được một gia đình công giáo ở Bích Tri đón nhận. Mỗi tháng tôi bị gọi lên toà án Binh làm luật sư cãi cho bị can. Một hôm đồng chí Châu là Chánh Án Toà Đại Hình đến chơi. Ông ta cho biết có đảng xã hội Việt Nam mới được dựng nên ít lâu nay:
"Chúng tôi biết ông rất kỵ cái việc vào Đảng cộng sản vì ông không thích làm chính trị, nên tôi mời ông vào đảng xã hội. Đảng này không có kỷ luật chặt chẽ: không có tiểu tổ và không phải họp hàng tuần. Đảng này, đúng như tên gọi của nó, có bổn phận xây dựng tại Việt Nam một chủ nghiã xã hội, loại bỏ sự bóc lột trong kinh tế và xã hội, bảo đảm ưu thế của người lao động, dù chân tay hay trí óc. Tôi không đi vào chi tiết nhưng có thể bảo đảm với ông rằng đây là một đảng tiến bộ phù hợp với người trí thức. Cũng xin nói thêm là đã được một học giả nổi tiếng là cụ Bùi Kỷ gia nhập".
- Châu cũng nói với tôi những điều tương tự. Tôi cũng được người ta cho biết là không nên từ chối lời mời của Đảng cầm quyền. Nhất là nếu mình chẳng được gì thì cũng chẳng mất gì.
- Chúng ta có thể tự hỏi vì lý do gì Đảng cầm quyền đã cảm thấy sự cần thiết phải xây dựng hai đảng "anh em". Theo ý tôi, lý do chính là những người cầm quyền không muốn và không thể để cho bọn trí thức và bọn tư sản lọt ra ngoài vòng kiểm soát của họ. Những đảng anh em được tạo ra nhằm mục đích "nhốt trại một cách chính trị" (encaserner politiquement) tầng lớp trí thức. Không một cá nhân, không một nhóm người nào có thể để cho tự do được. Sự tự do bị cấm ở Việt Nam. (La liberté est intredite au Vietnam)
- Tôi còn thấy một lý do khác: Phong trào thúc đẩy trí thức và tư sản về Hà Nội đoàn tụ với bà con ngày càng không cưỡng lại được. Vì lẽ gì? Trước hết vì sự bất ổn do máy bay oanh tạc và đêm hôm bị lính com-măng-đô lẻn vào cướp của giết người. Sau cùng là sự kiểm soát quá tỷ mỷ của những người cầm quyền cộng sản, công an nổi, công an chìm, thêm sự đói khổ cùng cực vì kiếm sống ở chiến khu vô cùng khó khăn. Chẳng một người chồng nào dù kiên nhẫn và chịu đựng đến đâu, có thể đeo mãi bên cạnh lũ vợ con không ngừng than van khóc lóc ngày đêm. Kiệt lực, anh ta đành đầu hàng, thuê một chiếc thuyền tam bản chở cả gia đình lúc nhúc ngược sông Đáy về tới Đông Quan, cửa thành Hà Nội. Đảng xã hội có thể tập trung phong trào này, chận đứng nó lại và giữ những người trí thức còn lại không cho bỏ vào thành.
- Tôi đã nằm mơ thấy một đảng xã hội được đảng cộng sản tin dùng và cho cái quyền làm phát ngôn viên của người trí thức, một mặt, để bênh vực trí thức chống lại những thành kiến và các biện pháp phòng ngừa đã ăn sâu vào đầu óc người cộng sản; thẳng thắn và chính trực đề nghị những suy tư của trí thức trong việc điều hành đất nước, phục vụ phúc lợi chung trong lợi ích của dân tộc. Nhưng điều đó hình như không nằm trong dự tính của nhà cầm quyền, họ chỉ cần bọn thuộc hạ, bọn tôi tớ dễ bảo, hơn là những cố vấn có thẩm quyền mà nhiệm vụ là soi đường cho Đảng. Thật buồn là giấc mơ của tôi không bao giờ thành sự thực. Mối thâm thù lạ lùng đến kỳ cục đối với người trí thức đã đè nặng trên vai các đành anh Liên Xô và Trung Quốc, cho nên đàn em Việt Nam, không thể đi ngược dòng, chống lại thành kiến của các bậc đàn anh.
- Làm sao có thể quên được sự thống khổ mà chúng ta đã trải qua trên hành trình đi tới nơi hẹn mà chúng ta được các nhà lãnh đạo mời, tại một căn nhà lá biệt lập ở phiá nam Phủ Lý, chỗ con đường rẽ hai, ngã phải đi Ninh Bình và ngã trái về Nam Định (?) Con đường suốt chiều dài rộng bị hầm hố và dấu bánh xe sâu rộng phá vỡ, cấm tất cả xe nhà binh, xe bọc thép, xe tăng không được lưu thông, dự báo sự tấn công bất ngờ của địch. Không thể đi xe đạp, bắt buộc phải đi zic-zắc, vắt xe đạp lên vai. Khi tới khúc đường nhựa trải đá, nhựa đá bắn tung toé làm rớt nước mắt. Những cột đèn còng xuống, nhà cửa chỉ còn lại những mảnh tường cháy xém; tất cả khung gỗ, rường mái, cột kèo, cả tới khung cửa, cánh cửa ra vào và cửa sổ đều đã bị gỡ đi. Cỏ dại cao tới đầu người, rêu phủ xanh những bức tường lung lay. Một sự đau xót nhói buốt siết họng trước cảnh tiêu thổ kháng chiến. Lòng yêu tự do, sự từ chối làm nô lệ ngoại bang đã tạo một sức mạnh phi thường khiến con người không ngần ngại tàn phá những gì mà họ đã xây dựng, tự tay giết đứa con mà mình đã tạo dựng bằng xương máu, trí óc và chân tay của mình. Ánh mắt giao nhau, hai cái nhìn bắt tréo cùng đặt câu hỏi: "Nếu chủ nhà không phải là người Việt thì sự thể có như thế chăng?"
Tôi chắc mái tranh người ta hẹn chỉ là nơi trú của những người canh đêm. Khi bước vào, sự bần cùng dơ dáy đến tởm lợm đến khó chịu. Trên nền đất, một cái chiếu rách được trải ra. Vách đất há hốc đầy lỗ thủng lớn. Trên bức vách trong cùng, một giải băng vải đỏ hò hét những chữ vàng:"Đảng Cộng Sản Việt Nam muôn năm!" Lá cờ Liên Xô với dấu hiệu búa liềm đối diện với cờ Việt Nam sao vàng trên nền đỏ. Ba vị thánh mác-xít ngự trị vai kề vai với chủ tịch Hồ. Ba đồng chí cộng sản trong đó có Châu, đón và giải nghiã cho biết là chúng tôi được mời đến để làm lễ tuyên thệ với Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội. Họ yêu cầu chúng tôi phải thề vâng lệnh và trung thành với cả hai đảng; chúng tôi giơ tay phải và thề. Buổi lễ đơn giản khốn cùng không gây cho chúng tôi ấn tượng gì. Nếu ngày nay chúng tôi nhớ lại chỉ bởi vì cái đám táng của hai đảng xã hội và dân chủ vừa được tổ chức với những nghi thức đập vào mắt. (...)
- Tôi nghĩ rằng người ta đã rắp tâm cho chúng ta biết trước những gì có thể chờ đợi ở đảng xã hội. Người ta muốn nhấn mạnh rằng tổ chức này chì là bà con nghèo mà người ta giữ trong nhà vì lòng từ thiện, chỉ được hưởng phần cơm thừa canh cặn, chỉ có nhiệm vụ hầu hạ và tuyệt đối gọi dạ bảo vâng. Họ mời ta là để cho biết không nên có ảo tưởng gì về vai trò của mình!
- Dĩ nhiên là chúng ta hiểu rõ điều đó. Và nếu ngày hôm nay cái đám tang mà chúng tôi đau buồn đến dự được trọng thể như thế này, lý do quan trọng là để, trái với những gì đã xẩy ra trong hơn một thập kỷ, người ta muốn thổi phồng tầm quan trọng của đảng xã hội, cho nó một vai trò mà nó chưa bao giờ có. Trong bối cảnh chế độ đa nguyên đang mở rộng và thắng thế trên thế giới, nước Việt Nam muốn chống lại bằng một sự khước từ dứt khoát, quả quyết. Người ta đã làm một trò bịp bợm lớn lao: Phần "Quan Trọng" của đảng xã hội đã tự nguyện tự huỷ để củng cố và mở rộng đảng Cộng sản mà độc quyền lãnh đạo đã được xây dựng trong sự thoả hiệp nhất trí giữa các đảng phái dân tộc. Bộ dạng trịnh trọng ngày hôm nay là để công bố cho mọi người biết cái chết tự chọn của các đảng phái "anh em" và sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Khá khen cho cho những nhà lãnh đạo trong thủ đoạn quỷ quyệt của họ, ngày trước họ dựng nên và ngày nay họ tiêu diệt hai đảng anh em. Một sự thực mà đến mãi bây giờ chúng ta mới hiểu và cuối cùng chúng ta đã hiểu rằng chính quyền cộng sản không bao giờ sai lầm, ngay cả khi họ không có quyền hảnh xử như họ đã làm! (Trang 95)
 
Độc quyền lãnh đạo

Sau khi đi dự buổi lễ vinh thăng Đảng Cộng Sản nhân ngày kỷ niệm sinh nhật 3/2, Đắc và Hiên dừng lại ở một công viên thì thầm trò chuyện. Hiên hỏi:

- Anh nghĩ sao về việc kết án tử hình hai đảng anh em mà đảng cộng sản là cha đẻ và cha nuôi?
- Thực ra thì tôi thấy không cần phải bóp cổ hai đứa con mà đảng cộng sản đã cho ra đời. Đó là những hài nhi ngoan ngoãn khó bì, giữ trò con rối tuyệt vời. Những máy người này được vô dầu mỡ tốt đến độ chúng chạy hay như những người máy. Đó là những máy hát thời xưa chỉ biết đọc những đĩa cũ.
Mặc dù hai đảng anh em biểu thị rõ đặc điểm câm và ỳ, nhưng chúng vẫn là những đảng chính trị có thể làm lợi cho phong trào đa nguyên đa đảng. Vì vậy, đảng Cộng Sản Việt Nam thấy cần phải khẳng định sự độc quyền lãnh đạo.
- Đi từ thực tế Việt Nam, chúng ta thử trình bầy sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản:
Một cái đảng giữ độc quyền lãnh đạo khai trừ tất cả những đảng khác, là hình ảnh một kỵ sỹ phi ngựa một mình. Quyền lực của nó là tuyệt đối, nó không lệ thuộc vào bất kỳ điều kiện nào. Nó không cần ai làm cố vấn, không cần hỏi ý kiến người khác. Không thể làm gì nếu không có lệnh của nó và tất cả mọi lệnh mà nó ban ra phải được thi hành. Nó không chịu bất cứ sự kiểm soát nào. Nó cho phép, thậm chí khuyến khích tung hô những cái hay mà nó làm, nhưng cấm phán đoán và phê bình những cái dở do nó gây ra. Luật pháp diễn tả ý nguyện của dân, nhưng cái đảng này ở trên luật pháp và ở trên dân. Không một thẩm quyền nào có thể xử án cái đảng, bởi vì nó không thể tạo ra một toà án để xử chính nó. Nó có thể ra lệnh cho thuộc dân của nó phải tự kiểm thảo, nhưng bản thân nó không làm. Không có con đường kháng cáo nào chống lại một trong những quyết định bị dân kêu ca của nó. Chỉ có nước chờ sự phán xét của Thượng đế! Nhưng cái đảng còn ở trên Thượng đế!
Khuyết tật cơ bản của chế độ này là kẻ cầm quyền, khi cần quyết định, không thể lựa trong một số biện pháp khác nhau đã được tuyển chọn, mà hắn chỉ có một biện pháp duy nhất là của chính hắn, mà chưa chắc đã hay.
 Người ta có thể phản bác rằng Lãnh tụ thế nào chả hỏi ý kiến những nhân vật trong Bộ Chính Trị, trong Ban Bí Thư, trong Ủy Ban Trung Ương Đảng. Nhưng đừng nên quên rằng, trong Đảng bao trùm một không khí kỷ luật sắt và sự lo sợ bị trừng phạt và tham vọng được thăng quan tiến chức và được hưởng đủ loại ân huệ bổng lộc, từ nhà ở, lương bổng, đến những công vụ béo bở ở nước ngoài, rồi những lợi lộc mà con cái được hưởng, và sự sợ hãi cũng như tham vọng làm tê liệt cái lưỡi của hơn một người cộng sản và giải thích tại sao tất cả những thuộc hạ khi được Lãnh Tụ hỏi ý kiến luôn luôn nghiêng mình với nụ cười và tuyên bố kinh ngạc trước thiên tài và sự thông bác của Lãnh Tụ!
Người dân cũng vậy, không thể nào khác, một khi có vinh hạnh được Đảng hỏi đến!
Lãnh Tụ có thể than thở như Moise: "Tôi đầy quyền lực nhưng cô đơn", nhưng hắn không thể đợi một sự cứu trợ nào của Thượng đế bởi vì chính hắn là Thượng đế trong xứ sở của hắn. Hắn bị cấm cố chung thân trong cô đơn!
Hai cuộc Cải cách ruộng đất và Cải tạo tư sản dẫn tới sự tịch thu đơn thuần ruộng đất trong tay địa chủ ở thôn quê và nhà cửa trong tay gia chủ ở thị thành. Cuộc cách mạng hoàn tất năm 1945 tự nhận là vô sản. Những người cách mạng vô sản không những thiếu văn hoá trí thức, lại cũng không có động sản và bất động sản nữa, có nghiã là họ không thể cai trị một xứ sở, điều khiển một dân tộc. Không thể đòi hỏi gì ở những người bụng rỗng, quần áo rách, không có cơm ăn, không có nhà trú qua đêm. Khi người ta thiếu tiền, người ta lấy ở chỗ có. Đó là ăn cắp và trong một xã hội có luật, có cảnh sát, thì sẽ bị bắt, bị tù. Nhưng những người cách mạng vô sản nào có coi luật lệ ra gì: họ chỉ cần tuyên bố trắng rằng sở hữu là ăn cắp! Rằng những người có đất có nhà đồng loã với phản động, rằng tất cả đều phải biết câu: lấy của kẻ cắp, không phải là ăn cắp! Về phương diện kỹ thuật thì chỉ cần ban sắc lệnh bãi bỏ sở hữu cá nhân. Là xong trò! (Trang 96-97)

Vai trò của Quốc hội

 Hiên và Đắc, hai trí thức đích thực còn sống tới thập niên 90, nhận định hiện tình sau "đổi mới":

"Luật được "bầu" ở Quốc Hội. Nay, cái quốc hội này gồm trăm phần trăm cộng sản chính thức và cộng sản ngầm (crypto communistes) luôn luôn bày tỏ, xác nhận sự trung thành triệt để đối với chính quyền. Cũng có thể mức độ văn hoá của những thành viên trong quốc hội không cho phép họ đề cập những cuộc thảo luận và phê bình quá khó khăn về kinh tế và luật pháp. Cái quốc hội này được coi là đại diện của dân nhưng nó lại là đại diện của Đảng, và tất cả những điều luật được nó biểu quyết đều do chính quyền gợi ý hay chính quyền làm ra!
Đảng và Nhà Nước điều khiển Quốc hội, ngự trên tất cả luật pháp.
Quốc Hội lập pháp không đảm trách bất cứ một chức năng chính trị nào, nó không can dự vào việc thành lập chính phủ, cũng không lật đổ chính phủ bằng cách bỏ phiếu bất tín nhiệm. Những người cầm quyền, như vậy, không thể bị tố cáo trước pháp luật, họ ở trên pháp luật và công lý. Trong tất cả các nước văn minh, nguyên tắc thiêng liêng thần thánh là phải tôn trọng sự độc lập của quan toà trong sự thực hành nhiệm vụ của họ. Vậy mà ở Việt Nam, các thẩm phán trước khi quyết định tuyên án phải hỏi ý kiến người cầm đầu Đảng. Nhưng nếu đối với phần đông thiên hạ, công lý chẳng có trên đời, thì ở đây câu này lại càng đúng hơn nữa: thẩm quyền công lý không bao trùm những tội ác lớn nhỏ của những người cầm quyền. Cho nên sự vô trách nhiệm của họ thật toàn diện, trọn vẹn, không chỉ trong địa hạt chính trị mà cả pháp lý (...).
Bây giờ chúng ta đã biết thế nào là sự độc quyền cai trị mà sự tuyệt đối vô trách nhiệm trải rộng trong mọi địa hạt! Trong một môi trường xã hội mà cái vô cùng nhỏ đi cạnh cái vô cùng to, thì không còn nghi ngờ gì nữa, cái vô cùng to sẽ nuốt cái vô cùng nhỏ, không cho nó những vận hội để sống theo ý muốn, theo sở thích, mà buộc nó phải chịu theo kỷ luật tập thể, tổ chức cuộc đời bằng cách bắt chước người khác, không được tỏ ý kiến riêng về một lối sống, một ý thích cá nhân nào. Xã hội là một trại lính mênh mông và kỷ luật tập thể áp dụng cho tất cả. Xin một giấy phép đặc biệt để ra trại vô cùng khó khăn và trong đời sống hàng ngày, triệt để cấm diễn tả tự do ý kiến của mình, nhất là ý kiến phê phán cấp trên và những người có chức quyền. Tất cả những ai vô tình hay cố ý vi phạm kỷ luật tập thể, sẽ bị kết tội có khuynh hướng "phản động" và bị trừng phạt nặng nề. Người ta không ra lệnh cho dân phải mặc đồng phục, chỉ vì sự đói khổ đã bắt họ mặc cái đồng phục tôi đòi. Nhưng người ta có thể cưỡng bức nhét vào mọi đầu óc, sự tôn thờ cùng một sắc độ chính trị, chấp nhận cùng một thái độ trí thức, cùng tôn sùng những thánh thần cộng sản. Một tiếng kèn trổi lên, tất cả bắt đầu cùng bước, cùng cất giọng đồng ca!
Người ta dạy dân tín điều Mác-xít xưa nay Việt Nam không ai biết, còn thực hành thì người dân chỉ biết những cấm điều phải tuyệt đối tuân theo, mặc dù trong những diễn văn gửi đến cử tọa quốc tế, các lãnh đạo chối tiệt, bảo ở Việt Nam làm gì có cấm. Ví dụ người ta hay nói đến dân chủ, nhưng những quyền tự do đương nhiên và quyền con người thì không được biết đến ở Việt Nam. Hay quyền tự do ý kiến, có trong tất cả các nước dân chủ, cũng không được biết ở Việt Nam. Cấm phê bình chỉ trích những người cầm quyền trong Đảng và những quyết định của họ, cấm cả sự không tán thành (...)
Tất cả báo chí, dù ở đâu, tuyệt đối không dám có một bài viết, bài báo ngắn hay bản tin để lộ một ý kiến xấu đối với những người cầm quyền hay đối với đường lối chính trị của Đảng. Một sự kiểm duyệt tỷ mỷ, cẩn mật, đầy cảnh giác không bao giờ cho in những dòng khiếp đảm như thế" (trang 100- 101).
Phải công nhận rằng Đảng đã kiến trúc sự độc quyền lãnh đạo một cách hoàn hảo! Đó là một công trình bất hủ không thể khám phá ra một vết rạn nhỏ và sự thiết bị cũng tuyệt vời đến nỗi không một con kiến nào có thể lọt qua mà không bị bắt quả tang trong tầm thấy của người gác (détenteur) và qua mắt ống chuẩn trực (collimateur)" ! (trang 99).

Về hiện tình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã, Nguyễn Mạnh Tường viết:

"Có người kết luận: Như thế chế độ cộng sản chỉ kéo dài ở Việt Nam trong có một thế hệ. Con cái những nhà cách mạng tiên phong đã trở thành những nhà tư bản chính cống, giết cha về mặt chính trị. (...)
Nay, độc quyền đảng trị cho phép tất cả cán bộ cộng sản được quyền ban những quyết định có trọng lượng vàng: Một chữ ký dưới cái giấy chứng nhận mang lại cho người ký một phong bì đầy đô la, đưa tận tay, kín đáo, vắng bặt những con mắt hiếu kỳ ô uế, câm tiệt những xì xào của kẻ xấu miệng". (Trang 102)
 
Une voix dans la nuit, tác phẩm áp chót của Nguyễn Mạnh Tường, viết xong ngày 19/3/1993, ở tuổi 84-85, cho tới nay là cuốn sách có hệ thống, khúc triết và sâu xa nhất bao trùm toàn bộ hành trình thiết lập chế độ độc tài đảng trị ở Việt Nam.

Hiện nay, mọi người dường như đã "thích nghi" với chế độ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã.
Ngậm miệng là điều kiện cần và đủ để thành công mọi mặt, từ công việc làm ăn đến thăng quan tiến chức. Từ miếng giấy thông hành về nước, đến việc dạy học, việc mở hội thảo ở Việt Nam.

Ngoại trừ những khuôn mặt can trường đã vào tù, tinh thần trí thức hướng dẫn xã hội và dân tộc đến bình đẳng tự do, dân chủ, đã bị dẹp tan, gần như diệt chủng, kể cả những "trí thức" đã đi du học, làm việc ở nước ngoài, đã được giải thưởng quốc tế, cũng lộn về để nhận ân sủng, phẩm hàm, nhà cửa.

Thông điệp Nguyễn Mạnh Tường để lại cho chúng ta, mạnh mẽ và dứt khoát: Sống không chỉ có ăn mặc, có nhà cửa, có phẩm hàm, địa vị, mà còn phải có văn hoá, tư tưởng. Phải đòi cho được quyền làm người. Cho chính mình và cho người khác. Nếu không, con người sẽ chẳng khác gì con vật.

Paris ngày 17/9/2011
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20110918-phan-xvii-nguyen-manh-tuong-tieu-thuyet-une-voix-dans-la-nuit-ii-van-de-tri-thuc-v