Thứ Hai, 28 tháng 11, 2011

Thư của một nông dân gởi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Kính gởi: Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng
Tôi tên là Huỳnh Kim Hải, một nông dân làm lúa ở tỉnh Đồng Tháp thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long, có viết một số bài báo để đòi hỏi quyền lợi của nông dân với bút danh Hoàng Kim ( Đồng Tháp).
Đầu thư, tôi kính chúc Tổng Bí thư và gia đình được nhiều sức khỏe.
Kính thưa Tổng Bí thư,
Thời Báo Kinh Tế Việt Nam Online cho biết trong buổi làm việc hôm 13/9 tại Trung ương Hội nông dân ViệtNam: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề nghị các đại biểu làm rõ thêm nhiều vấn đề. Trong đó có chất lượng, tình hình công ăn việc làm, đời sống vật chất của nông dân; nhận thức, giác ngộ chính trị, ý thức làm chủ của nông dân ra sao, hiện nay nông dân đang có tâm tư, nguyện vọng, đòi hỏi gì đối với Đảng, Nhà nước?”.
Nông dân chúng tôi rất vui mừng, vì Tổng Bí thư quan tâm đến sản xuất, đến đời sống, và tâm tư nguyện vọng của nông dân chúng tôi.
Thế nhưng, đọc Kiến nghị của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam với Đảng, Nhà nước đăng trên báo Dân Việt Online, và một số báo khác, nông dân chúng tôi nhận thấy: ông Nguyễn Quốc Cường Chủ tịch Hội Nông dân, nói những điều mà Tổng Bí thư muốn nghe, chứ không phải những điều mà Tổng Bí thư cần phải biết.
Thưa Tổng Bí thư: nông dân chúng tôi hiện không có chỗ để nói, vì hội nông dân không phải của nông dân, vậy nếu muốn biết tình cảnh của nông dân xin Tổng Bí thư hãy đến cùng nông dân chúng tôi, xin hãy thân hành mà đến với nông dân để biết sự thật, còn nếu hỏi Hội Nông dân, hay những nông dân mà hội này giới thiệu thì Tổng Bí thư sẽ không bao giờ biết sự thật của nông dân
Vì vậy, tôi mạo muội viết bức thư này gởi đến Tổng Bí thư, như là một sự phản ảnh, báo cáo từ thực tế, như là một sự giải bài của nông dân với lãnh đạo, với mong muốn: nói cho Tổng Bí thư hiểu rỏ về tình cảnh của nông dân hiện nay;  trong  mong ước:  từ thực tế mà nông dân chúng tôi trình bài, Tổng Bí thư hoàn chỉnh Nghị Quyết Tam Nông để giúp nông dân thoát nghèo.
Ông bà chúng ta nói rằng: “ sự thật mất lòng”. Sự thật thường khó nghe. Vì thế, xin Tổng Bí thư tha lỗi vì những sự thật đầy bức xúc mà tôi trình ra đây.
Kính thưa Tổng Bí thư,
Tôi xin được trình lên Tổng Bí thư một thực trạng đáng buồn trong việc sản xuất và tiêu thụ lúa gạo: Chính phủ đã bỏ rơi nông dân, nên nông dân đang “tự bơi” trong một nền nông nghiệp tự phát, dưới sự bóc lột của các nhóm lợi ích là các hiệp hội ngành hàng, còn Hội Nông dân không phải của nông dân nên không quan tâm bảo vệ quyền lợi cho nông dân. Tôi xin được trình bày cụ thể:
Chính phủ bỏ rơi nông dân.
Là một người làm lúa trên 20 năm, tôi xin được thưa với Tổng Bí thư rằng: từ trước đến nay, nông dân chúng tôi hầu như không nhận được những chính sách phát triển lúa gạo có hiệu quả nào từ Chính phủ, những chính sách của Chính phủ chỉ dừng lại ở mức độ xóa đói giảm nghèo.
Chính phủ nói nhiều đến việc cơ giới hóa sản xuất lúa từ 20 năm nay, nhưng Chính phủ không hề có chính sách chế tạo máy móc để cơ giới hóa:
Về khâu làm đất nông dân chúng tôi gian nan trong thời gian dài vì thiếu sức kéo, đến khi máy kéo loại nhỏ, đã qua sữ dụng, giá rẻ của Nhật Bản được nhập qua, phù hợp với túi tiền của nông dân, chúng tôi mới cơ giới hóa được khâu làm đất.
Về việc cơ giới hóa khâu thu hoạch cũng vậy, Chính phủ đề ra việc cơ giới hóa khâu thu hoạch, nhưng không có kế hoạch chế tạo máy gặt đập liên hợp, khi hảng Kubota qua Việt Nam bán máy gặt đập liên hợp vài năm gần đây, việc cơ giới hóa khâu thu hoạch mới phát triển mạnh mẻ.
Nếu Tổng Bí thư hỏi ông Bộ trưởng Bộ Công thương rằng Việt Nam ta đang xuất khẩu hằng năm loại gạo gì số lượng và chủng loại ra sao, tôi dám chắc ông Bộ trưởng Bộ Công thương không trả lời được, vì hiện nay, Hiệp hội lương thực Việt Nam mua gạo từ thương lái, rồi trộn lẩn các loại gạo với nhau, để xuất với tên gọi gạo trắng hạt dài, phân biệt bởi phần trăm tấm.
Nếu Tổng Bí thư hỏi ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc qui hoạch cơ cấu giống lúa cho nông dân, ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng sẽ không trả lời được, vì Bộ Nông nghiệp có biết chủng loại và số lượng gạo xuất khẩu hằng năm ra sao mà lập kế hoạch cơ cấu giống, với lại, Bộ Nông nghiệp cũng chẳng biết giá từng loại lúa thay đổi ra sao vào vụ thu hoạch sắp tới, thì làm sao mà dám quy hoạch cơ cấu giống, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ khuyến cáo nông dân cách chọn giống trên báo, trên đài còn nông dân nghe hay không tùy ý.
Không những không có chính sách phát triển sản xuất, việc bán lúa gạo giúp cho nông dân Chính phủ cũng không làm được.
Chính phủ giao toàn quyền mua bán lúa gạo cho Hiệp hội lương thực Việt Nam là một hiệp hội ngành hàng hoạt động vì lợi nhuận, thế nên, Hiệp hội lương thực Việt Nam bán gạo xuất khẩu với giá rẻ nhất thế giới, rồi quay vào mua lúa tạm trữ của nông dân với giá rẻ như lấy không.
Ngày 4/11/2010 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị định số 109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, có hiệu lực từ ngày 1/1/2011. Nông dân chúng tôi xin thưa với Tổng Bí thư rằng đây là một Nghị định quan liêu và vô trách nhiệm đối với quyền lợi của nông dân, vì Nghị định không hề quan tâm đến giá bán gạo xuất khẩu và giá thu mua lúa, tức là không quan tâm đến thu nhập của nông dân.
Nghị định quan liêu vô trách nhiệm này có hiệu lực từ ngày 1/1/2011, vậy mà mãi cho đến ngày 17/6/2011 Bộ Tài chính mới ban hàng Thông tư số 89/2011/ TT-BTC về cách tính giá sàn xuất khẩu gạo, nhưng phải tới 1/8/2011 mới có hiệu lực. Như vậy từ ngày 1/1/2011 đến ngày 1/8/2011 giá sàn xuất khẩu gạo do ai tính và tính ra sao? Từ ngày 1/8 đến nay cũng không thấy ai công bố giá sàn gạo xuất khẩu cả.
Thông tư số 89/2011/TT-BTC là hổn mang của những ẩn số không đầu không đuôi, tôi dám cam đoan với Tổng Bí thư là chẳng thể dựa vào 2 cách tính trong Thông tư này để tính được giá sàn xuất khẩu gạo.
Không những không giúp được nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, Chính phủ lại bắt nông dân chúng tôi dùng thu nhập còm cỏi của mình để chống lạm phát cho Chính phủ, bằng cách khống chế giá lúa gạo để chống lạm phát.
Việt Nam và Thái Lan xuất khẩu trên 50% lượng gạo thế giới, Thái Lan từ nhiều năm nay, nhiều lần đề nghị hợp tác với Việt Nam để ấn định giá bán gạo trên thị trường thế giới, vậy mà, Chính phủ Việt Nam luôn từ chối. Năm nay, Chính phủ Thái Lan nâng mức múa lúa cho nông dân Thái Lan lên khoảng 500 đô la Mỹ/ tấn, vậy mà Việt Nam năm 2011 này vẫn bán gạo với giá khoảng 500 đô la Mỹ/ tấn.
Tôi xin trình lên Tổng Bí thư phát biểu của ông Nguyễn Thành Biên Thứ trưởng Bộ Công thương, kiêm Tổ trưởng Tổ xuất khẩu gạo của Chính phủ, để Tổng Bí thư hiểu vì sao Chính phủ Việt Nam không hợp tác với Chính phủ Thái Lan ấn định giá bán gạo xuất khẩu: “ Trong những tháng cuối năm, mục tiêu kiềm chế lạm phát là quan trọng nên điều hành lúa gạo phải hướng tới mục tiêu này, không thể chạy theo mục tiêu đảm bảo có lãi cao cho nông dân”.
Nông dân đang tự bơi.
Bị Chính phủ bỏ rơi, nên nông dân chúng tôi phải “tự bơi” để sản xuất, mà “ tự bơi” thì cực khổ, thiệt hại kể làm sao cho xiết!
Trình độ học vấn cấp 1, cấp 2 mà phải lao vào nghiên cứu cải tiến máy móc để phục vụ sản xuất: nông dân làm máy cấy, nông dân làm máy gặt đập liên hợp, nông dân làm máy phun thuốc trừ sâu, nông dân làm máy tách vỏ dừa, nông dân làm máy tách vỏ đậu phọng… thì thất bại ê chề mà thành công hạn hữu.
Thế nhưng, khi thành công cũng không được lợi ích gì.
Tôi xin được lấy việc chế tạo máy gặt đập liên hợp làm thí dụ: phải có tài năng và dũng cảm chấp nhận hao công, tốn của nông dân mới có thể làm ra được máy gặt đập liên hợp, nhưng do thực hiện thủ công với vật liệu tự tìm nên hay hỏng hóc trong quá trình sữ dụng. Thế rồi, hảng Kubota vào ViệtNamsản xuất máy gặt đập liên hợp, máy được sản xuất hàng loạt, vật liệu có độ bền cao, sữ dụng ít hỏng hóc, dể mua phụ tùng, nên dù giá cao vẫn chiếm lĩnh thị trường.
Từng nông dân sản xuất thủ công, cạnh tranh với hảng Kubota nổi tiếng, khác nào trứng chọi với đá. Và như vậy công sức của nông dân chế tạo máy gặt đập liên hợp dù thành công, đã đổ xuống sông xuống biển, vì không thể cạnh tranh nổi với máy của hảng Kubota.
Thưa Tổng Bí thư. Vào năm 2004, Bộ Nông nghiệp và hợp tác xã Thái Lan đã soạn thảo chiến lược lúa gạo giai đoạn 2004- 2008. Đây là chiến lược nhằm hoạch định đường lối nâng cao hiệu quả phát triển lúa gạo của Thái Lan trong những năm trước mắt. Bản dự thảo gồm 5 lĩnh vực: 1/ Nâng cao năng suất; 2/ Nâng cao giá trị; 3/ Tiếp thị quy mô toàn cầu; 4/ Đảm bảo đời sống người lao động và tránh rủi ro; 5/ Nâng cao hiệu quả dịch vụ.
Còn ở Việt Nam, từ trước đến nay: trồng giống gì, và bán ra sao là tự nông dân.
Do Bộ Công thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn không biết mỗi năm bán loại lúa gì số lượng ra sao, nên nông dân chúng tôi đang phải tự chọn giống lúa theo kiểu hên xui để gieo sạ. Tôi xin lấy thí dụ: lúa thơm Jasmin 85 có năm hơn lúa ngang IR 50404 đến 1.500 đồng/ kg, nhưng có năm chỉ hơn 200 đồng/ kg.
Cho nên  nông dân hiện  đang chọn giống gì, trồng cây gì: cũng chết!
Sản xuất đã tự bơi còn việc tiêu thụ sản phẩm lại thê thảm hơn. Nông dân làm ra lúa gạo, nhưng không có quyền ấn định giá mua bán lúa gạo.
Hiệp hội lương thực Việt Nam được Chính phủ giao độc quyền mua bán lúa gạo, lại luôn bán gạo xuất khẩu với giá rẻ nhất thế giới, rồi quay trở vào trong nước bài kế mua lúa tạm trữ, để ăn cướp hết lợi nhuận của nông dân.
Thưa Tổng Bí thư. Xuất khẩu gạo mà không có kho chứa lúa gạo thì làm sao điều tiết được quá trình xuất khẩu, làm sao giữ lúa gạo chờ giá, làm sao không bị khách hàng ép giá. Vậy mà, dù xuất khẩu gạo trên 20 năm nhưng Việt Nam không xây dựng đủ kho chứa lúa.
Thiếu kho chứa lúa, nhưng sì lô chứa lúa gạo hiện đại được xây dựng ở Phường 11 thị xã Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp từ khi xây dựng lại bị bỏ hoang, đến hôm nay xi lô chứa lúa đã biến thành Xí nghiệp sản xuất thức ăn thủy sản Sông Tiền.
Xi lô hiện đại ỏ Đồng Tháp đã biến thành xí nghiệp thức ăn thủy sản.
Chính phủ các nước nhập khẩu gạo (điển hình làPhilippines) trực tiếp điều hành việc nhập khẩu, với mục đích hạ giá gạo nhập khẩu. Chính phủ các nước xuất khẩu gạo ( điển hình là Thái Lan) cũng trực tiếp điều hành việc xuất khẩu mục đích là nâng cao giá bán gạo, còn ở Việt Nam, Chính phủ giao toàn quyền xuất khẩu gạo cho Hiệp hội lương thực Việt Nam, thế nhưng, Hiệp hội lương thực Việt Nam do thu lợi nhuận đầu tấn nên không quan tâm gì đến giá bán gạo xuất khẩu, như vậy, chẳng khác nào Chính phủ Việt Nam đang bắt từng nông dân phải cạnh tranh trong xuất khẩu gạo với Chính phủ các nước.
Là nước xuất khẩu gạo mà Chính phủ chẳng có cơ quan nào thực hiện việc phân tích và dự báo giá lúa gạo thế giới, chẳng có kho bải để trữ lúa gạo chờ giá, Chính phủ giao hết việc mua bán lúa gạo cho Hiệp hội Lương thực Việt Nam, mà Hiệp hội Lương thực Việt Nam chỉ biết bán lúa gạo theo kiểu sang tay, chẳng biết phân tích dự, báo giá gì cả.
Hay nói một cách hình tượng hơn: với cơ chế xuất khẩu gạo hiện nay, Chính phủ ViệtNamđang xô nông dân ViệtNamra biển lớn trên xuồng ba lá.
Nền nông nghiệp Việt Nam đang tự phát.
Chúng ta có một nền nông nghiệp, mà trong đó Chính phủ không có các chính sách phát triển nông nghiệp, Chính phủ giao cho các hiệp hội ngành hàng độc quyền mua bán lúa gạo, nông sản của nông dân, đổi lại, các hiệp hội ngành hàng khống chế giá lúa gạo, nông sản để giúp Chính phủ kiềm chế lạm phát.
Trong nền nông nghiệp ViệtNamhiện nay, các hiệp hội ngành hàng tước đoạt hết lợi nhuận của nông dân.
Được độc quyền các hiệp hội ngành hàng xuất khẩu nông sản ở dạng thô để ăn chênh lệch đầu tấn, mà không hề quan tâm đến việc nâng cao giá trị nông sản, không xây dựng các nhà máy chế biến, không xây dựng kho bải, không tạo thương hiệu cho nông sản.
Việt Nam có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới như: gạo, cà phê, cao su, tiêu, điều… thế nhưng trên 90% hàng nông sản xuất khẩu ở dạng thô, giá rất rẻ so với giá mặt hàng cùng loại của nước khác.
Điển hình như gạo, Việt Nam xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, thời gian xuất khẩu trên 20 năm, nhưng luôn bán gạo với giá rẻ nhất thế giới, thường xuyên rẻ hơn gạo cùng loại của Thái Lan Từ 100 – 150 đô la Mỹ/ tấn. Vậy mà, Chính phủ chưa hề đề ra bất cứ chính sách nào để tăng giá trị hạt gạo.
Trồng cây gì, nuôi con gì điều do nông dân tự ý chọn lựa, bán được hay không là do hên xui, may nhờ rủi chịu, chứ nền nông nghiệp không phát triển dựa trên kế hoạch nào cả, chính phủ không đề ra được bất cứ chính sách phát triển nông nghiệp nào cả.
Khi có dịch bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá trên lúa, các bộ ngành và các nhà khoa học điều đồng loạt khuyến cáo không nên trồng lúa vụ 3 để cắt dịch bệnh. Thế nhưng hiện nay, diện tích lúa vụ 3 đã tăng lên khoảng 600.000 ha.
Tại sao lại đắp đê để độc canh 3 vụ lúa bấp bênh? Tại sao không thực hiện 2 vụ lúa 1 vụ màu?
Trồng không biết nên trồng giống gì, cây gì. Nuôi không biết nên nuôi con gì. Bán cũng không biết sẽ bán cho ai, giá cả ra sao. Đó là thực trạng của nền nông nghiệp ViệtNam.
Các hiệp hội ngành hàng tước đoạt hết lợi nhuận của nông dân.

Chính phủ phát triển nông nghiệp bằng cách dựa hẳn vào các hiệp hội ngành hàng, bắt các hiệp hội ngành hàng làm thay nhiệm vụ cùa Chính phủ, đổi lại, Chính phủ cho phép hiệp hội ngành hàng độc quyền mua bán các sản phẩm nông nghiệp, vì thế, lợi dụng sự độc quyền này, các hiệp hội ngành hàng tước đoạt hết lợi nhuận của nông dân.
Tôi xin được phép trình lên Tổng Bí thư cách thức buôn bán lúa gạo của Hiệp hội Lương thực ViệtNam. ( Hiệp hội Cà phê Ca cao hoạt động rất giống với Hiệp hội Lương thực ViệtNam)
Hiệp hội lương thực ViệtNamluôn bán gạo với giá rẻ nhất thế giới:
Báo Tuổi Trẻ Online cho biết: “Trong vòng 5 năm 2001-2005 “giá của chúng ta chỉ bằng gần 80% giá bình quân thế giới (220USD/tấn). Đó là giá bán “bèo” nhất trong số 5 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới (xét theo khối lượng) theo thứ tự là Thái Lan, Ấn Độ, Việt Nam, Pakistan”.
Năm 2006, trong một bài trả lời phỏng vấn trên báo VnExpress, ông Trương Thanh Phong, Tổng giám đốc công ty Lương thực miền Nam kiêm Chủ tịch VFA, cho biết: “Chỉ trong một thời gian ngắn từ mức giá hơn 260 USD/tấn, loại gạo 5 % tấm liên tục rớt giá và hiện được doanh nghiệp ký bán với giá chỉ 242 – 245 USD/tấn. trong khi giá thành loại gạo này lên đến 248 USD/tấn.”
Năm 2008, ngừng xuất khẩu gạo vì lý do an ninh lương thực, giá gạo xuất khẩu giảm, theo các chuyên gia nông dân thiệt khoảng nữa tỷ đô la Mỹ.
Ngày 21.8.2009 báo Lao Động Online cho biết: “Nghịch lý ở chỗ “làm chủ” thị trường gạo, nhưng hiện giá gạo của ta vẫn thấp nhất thế giới…”.
Bán gạo giá đã rẻ nhất thế giới, nhưng không mua lúa cho nông dân từ giá bán gạo này, Hiệp hội Lương thực Việt Nam bài mưu mua lúa tạm trữ, để ăn cướp hết lợi nhuận của nông dân:
Năm 2008 Hiệp hội Lương thực ViệtNambán gạo xuất khẩu giá qui ra giá lúa 6.432 đồng/ kg, mua lúa nông dân với giá 4.000 đồng/ kg. Hiệp hội lời 2.432 đồng/kg, nông dân bán lúa hòa vốn.
Năm 2009, bán gạo xuất khẩu qui lúa giá 6.362 đồng/ kg, mua lúa của nông dân với giá 4.000 đồng/ kg. Hiệp hội lời 2.362 đồng/ kg, nông dân hòa vốn.
Năm 2010, Hiệp hội Lương thực Việt Nam mua lúa tạm trữ cả hai vụ đông xuân và hè thu với giá vẫn 4.000 đồng/ kg, nhưng bán gạo với giá qui lúa 5.365 đồng/ kg, cả năm này, nông dân lời không đủ sống.
Thật là đau xót khi thưa với Tổng Bí thư rằng: chỉ cần Chính phủ lãnh đạo việc mua bán lúa gạo hiệu quả thì từ năm 2008 đến nay, nông dân luôn bán lúa với giá khoảng 6.000 đồng/ kg chứ không phải trồi sụt ở mức 4.000 đồng/ kg như hiện nay.
Cùng là mặt hàng bình ổn nhưng khi phân bón tăng giá Chính phủ chẳng hề bình ổn, Hiệp hội phân bón muốn tăng giá bao nhiêu thì tăng.
Thuốc bảo vệ thực vật cũng vậy các công ty, xí nghiệp muốn tăng bao nhiêu thì tăng Chính phủ chẳng kiểm tra kiểm soát gì cả.
Hội Nông dân là của Nhà nước nên chẳng quan tâm gì đến nông dân.
Mua bán lúa gạo Hiệp hội Lương thực Việt Nam độc quyền, có 21 vị ủy viên ấn định giá lúa gạo. Mua bán cà phê có Hiệp hội Cà phê Ca cao độc quyền, có 20 vị trong câu lạc bộ 20 ấn định giá mua bán cà phê.
Hội Nông dân đại diện cho tất cả nông dân trồng nhiều loại cây và nuôi nhiều loại con, thế nhưng Hội Nông dân là của Nhà nước chứ chẳng phải của nông dân.
Thực tế hiện nay, cơ quan làm việc của Hội Nông dân do Nhà nước cấp, nhân sự do Nhà nước bổ nhiệm, tiền lương do Nhà nước phát, công việc do Nhà nước phân công, cho nên, Hội Nông dân chỉ làm những việc có tính phong trào, mà không quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ quyền lợi của nông dân trong kinh tế thị trường.
Ở địa phương tôi, năm 1998, UBND xã đến tận nhà phát cho một số nông dân thẻ hội viên Hội Nông dân, rồi từ đó đến nay không hề họp hội gì cả, bản thân tôi đã 20 năm làm lúa mà không biết mình có phải là hội viên Hội Nông dân hay không.
Do lãnh đạo hội nông dân là nhân viên của Nhà nước, nên Chính phủ làm sao họ để vậy, không bao giờ dám có ý kiến bảo vệ quyền lợi cho nông dân: Chính phủ khống chế giá lúa gạo để chống lạm phát lãnh đạo Hội nông dân nghe theo, Hiệp hội Lương thực Việt Nam bài ra việc mua lúa tạm trữ để ăn cướp hết lợi nhuận của nông dân, Hội Nông dân làm thinh…
Trong kinh tế thị trường, Hội Nông dân không bảo vệ quyền lợi của nông dân thì ai sẽ bảo vệ quyền lợi cho nông dân? Hội Nông dân không phản ảnh tâm tư nguyện vọng của nông dân lên Đảng và Nhà nước, thì làm sao Đảng và Nhà nước biết tâm tư nguyện vọng của nông dân?
Thưa Tổng Bí thư. Tôi đã trình lên Tổng Bí thư thực trạng bi đát: nông dân đang càng ngày càng nghèo, và sự tự phát của nền nông nghiệp với biểu hiện xuất khẩu thô nông sản.
Với mong ước  Tổng Bí thư thay mặt Đảng và Nhà nước thực hiện thành công Nghị Quyết Tam Nông, tôi xin được đề đạt lên Tổng Bí thư tâm tư, nguyện vọng và những yêu cầu của nông dân đối với Đảng và Nhà nước.
Xin Tổng Bí thư thay đổi tư duy của Chính phủ.
Xin Tổng Bí thư thay đổi tư duy của Chính phủ, làm cho Chính phủ thực sự quan tâm đến quyền lợi của nông dân, đến sự phát triển của nền nông nghiệp, đến việc thực hiện Nghị Quyết Tam Nông.
Chính phủ hiện nay có tư duy khống chế giá lúa gạo để chống lạm phát ( khống chế cả giá lương thực, thực phẩm), vì thế, Chính phủ để cho Hiệp hội lương thực Việt Nam bán gạo với giá rẻ nhất thế giới, và mua lúa của nông dân với giá thấp như lấy không. Xin Tổng Bí thư xóa bỏ tư duy khống chế giá lúa gạo của Chính phủ.
Thái Lan đang thực hiện chính sách mua lúa giá cao cho nông dân, nhưng vẫn đảm bảo cho người ăn gạo, vẫn đảm bảo chống lạm phát, chứ đâu có khống chế giá lúa gạo như Chính phủ Việt Nam.
Chính phủ có tư duy bao đồng trong việc đảm bảo an ninh lương thực cho thế giới: sang Campuchia rồi sang châu Phi lập liên doanh trồng lúa, để dạy các nước trồng lúa, mà không nghĩ đến việc sẽ thu hẹp thị trường xuất khẩu gạo của nông dân và tạo thêm đối thủ cạnh tranh xuất khẩu gạo cho nông dân Việt Nam. Xin Tổng Bí thư nghiêm cấm mọi hoạt động lập liên doanh dạy nước ngoài làm lúa.
Xin Tổng Bí thư thay đổi cơ chế mua bán lúa gạo bất nhân, bất trí, và bất lương hiện nay.
Cơ chế mua bán lúa gạo hiện nay mà Chính phủ giao cho Hiệp hội Lương thực ViệtNamthực hiện: bất nhân vì làm cho nông dân càng ngày càng nghèo, bất trí vì bán gạo với giá rẻ nhất thế giới, bất lương vì ăn cướp hết lợi nhuận của nông dân. Xin Tổng Bí thư tháo ách bốc lột của Hiệp hội lương thực ViệtNamvới nông dân mà Chính phủ đang quàng lên cổ nông dân.
Điều kiện tiên quyết để xuất khẩu gạo thành công là phải có kho bải liên hợp với nhà máy xay lúa và máy sấy. Không có đủ kho bải chỉ nói thánh nói tướng cho vui chứ Chính phủ không thể lãnh đạo được xuất khẩu gạo.
Xin Tổng Bí thư trả lại Hội Nông dân cho nông dân.
Điều kiện tiên quyết để Hội Nông dân của nông dân là: lãnh đạo Hội Nông dân phải do nông dân bầu ra, lương do nông dân cấp phát.
Hội Nông dân phải là của nông dân mới bảo vệ được quyền lợi của nông dân trong kinh tế thị trường.
Lãnh đạo Hội Nông dân phải là nông dân hoặc những chuyên gia am tường về nông nghiệp có thiện ý với nông dân, có hai người thích hợp lãnh đạo hội nông dân đó là: Giáo sư Võ Tòng Xuân (đối ngoại) và Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT (đối nội).
Hiện nay, lãnh đạo Hội Nông dân do Chính phủ phân công, tiền lương do Chính phủ trả, cơ quan do Chính phủ cấp, thế nên Hội Nông dân là của Chính phủ chứ chẳng phải của nông dân.
Xin Tổng Bí thư trả Hội Nông dân lại cho nông dân, và giúp đở Hội nông dân của nông dân hoạt động hiệu quả trong cơ chế thị trường.
Cụ thể hơn, xin Tổng Bí thư giúp thành lập Hiệp hội của những người trồng lúa để bảo vệ quyền lợi cho người nông dân trồng lúa chúng tôi.
Xin Tổng Bí thư xóa bỏ việc độc quyền của các hiệp hội ngành hàng đối với lúa gạo và nông sản.
Hiệp hội Lương thực ViệtNamđộc quyền mua bán lúa gạo nên năm nào cũng ép giá, thắt hầu bóp cổ nông dân. Hiệp hội phân bón và các công ty thuốc bảo vệ thực vật năm nào cũng tăng giá sản phẩm để móc túi nông dân.
Nếu không xóa bỏ sự độc quyền ép giá của các hiệp hội này, nông dân chúng tôi sẽ không ngóc đầu lên nổi.
Xin Tổng Bí thư xóa bỏ độc quyền của các hiệp hội ngành hàng và có cơ chế kiểm tra, giám sát về giá đối với phân bón và thuốc bảo vệ thực vật.
Xin Tổng Bí thư ra lệnh tổng kiểm toán để biết lợi nhuận hàng năm của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, Hiệp hội Phân bón, và các công ty sản xuất thuốc bảo vệ thực vật, từ đó thu lại lợi nhuận bất chính mà các hiệp hội này đã tước đoạt của nông dân. ( như năm 2008 Hiệp hội Lương thực ViệtNambán lúa giá 6.432 đồng nhưng mua lúa của nông dân có 4.000 đồng/ kg).
Xin Tổng Bí thư xem xét hình mẫu mà Chính phủ Thái Lan lo cho nông dân Thái Lan. Xin Tổng Bí thư buộc Chính phủ ViệtNamphải trực tiếp điều hành mua bán lúa gạo vì quyền lợi của nông dân  như Chính phủ Thái Lan đang làm.
Xin Tổng Bí thư yêu cầu Chinh phủ đưa ra các chính sách phát triển nông nghiệp và xuất khẩu nông sản hiệu quả.
Việc sản xuất lúa nói riêng và nền nông nghiệp ViệtNamnói chung đang phát triển theo kiểu tự phát. Xin Tổng Bí thư yêu cầu Chính phủ đề ra chiến lược lúa gạo và những chính sách phát triển nông nghiệp hiệu quả.
Để phát triển nông nghiệp, Chính phủ phải có những chính sách cụ thể, chứ không thể dựa hoàn toàn vào các hiệp hội ngành hàng.
Các chính sách phát triển nông nghiệp dài hạn là cần thiết, nhưng phải có những chính sách ngắn hạn kèm theo, chính sách phát triển nông nghiệp mà đưa ra cho tới năm 2030, nhưng không biết năm 2012 làm gì, thì cũng như không, do chẳng ai kiểm tra được.
Xin Tổng Bí thư cho phép nông dân quyền sở hữu ruộng đất của mình
Hiện nay, quyền sữ dụng đất của nông dân chúng tôi cũng tương đương với quyền sở hữu: nông dân có quyền mua bán, trao đổi, cho tặng… Thế nhưng, đất đai vẫn thuộc sở hữu của Nhà nước.
Trước đây, ViệtNamchỉ kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, mọi tư liệu sản xuất đều là của nhà nước, nên đất đai thuộc sở hữu nhà nước là điều hợp lý.
Nông dân chúng tôi làm lúa, sau khi để lại đủ ăn cho đến thu hoạch vụ sau, số lúa dư bán cho nhà nước và nhận tem phiếu để mua các mặt hàng nhu yếu phẩm. Nông dân đi học, đi bệnh viện không tốn tiền.
Nay, mọi tư liệu sản xuất đã được tư hữu hóa, nông dân phải bỏ tiền ra mua mọi mặt hàng nhu yếu theo giá thị trường, đi học, đi bệnh viện phải tốn tiền, vậy giữ nguyên quy định đất đai thuộc sở hữu Nhà nước tức là không công bằng đối với nông dân.
Mọi thành phần kinh tế điều có quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, công nhân có quyền tư hữu xí nghiệp và nhà máy thông qua hình thức cổ phần, nhà tư bản được quyền tư hữu nhà máy và xí nghiệp, vậy tại sao nông dân không có quyền tư hữu về tư liệu sản xuất là ruộng đất của mình?
Mọi thành phần kinh tế điều là hữu sản, tại sao chỉ có nông dân vẩn là vô sản?
Nhà nước lớn sở hữu ruộng đất của nông dân chúng tôi, thì cũng không khác gì nông dân sở hữu, thế nhưng, Nhà nước nhỏ tức chính quyền cấp xã, huyện, tỉnh sở hữu ruộng đất của chúng tôi, chính là nguyên nhân sinh ra dân oan, dân khiếu kiện đông đúc hiện nay, vì nhà nước nhỏ rất khó thoát khỏi tham nhũng từ quyền sở hữu ruộng đất của nông dân.
Còn nếu ngại khi nông dân được tư hữu hóa ruộng đất sẽ gây khó khăn cho việc quy hoạch và phát triển công nghiệp, phát triển thành thị là một lo ngại không đúng. Thái Lan nông dân họ tư hữu ruộng đất, nhưng Chính phủ Thái Lan vẫn phát triển công nghiệp hóa và thành thị hóa nông thôn mà không có trở ngại gì.
Thưa Tổng Bí thư,
Làm sao thực hiện được Nghị Quyết Tam Nông của Đảng khi mà thu nhập chính đáng của nông dân trong việc bán lúa bị Hiệp hội Lương thực ViệtNamtước đoạt trắng trợn và công khai?
Cuối cùng, xin Tổng Bí thư cho các chuyên gia về nông nghiệp của Đảng và Chính phủ, phân tích đến vạch lá tìm sâu những điều tôi vừa kính trình lên Tổng Bí thư, nếu có gì gian dối không đúng sự thật, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Tổng Bí thư và trước pháp luật.
Còn, nếu những điều tôi kính trình lên Tổng Bí thư là đúng, thì đây là tiếng kêu cứu của hằng triệu nông dân khốn khổ, càng ngày đang càng nghèo hơn một cách phi lý, không còn chỗ dựa, đang trông chờ Tổng Bí thư và Đảng cứu giúp.
Xin Đảng và Tổng Bí thư cứu giúp nông dân ViệtNam.
Người gởi thư,
HUỲNH KIM HẢI

Nguồn:   http://www.boxitvn.net/bai/31125

Thứ Ba, 15 tháng 11, 2011

Câu chuyện Xô Viết

Phần1:

Diệt chủng 7 triệu người UKRAINA



Phần 2:

 Đấu tranh chống lại bản chất con người

 

 

Phần 3 :

3 năm , xử tử 11 triệu người

 

 

Phần 4:

17/9/1939 , xâm lược Balan

 

 

Phần 5:

Cấu kết với phát xít?


 

 

Phần 6:

Xtalin tàn sát người Do Thái

 

 

Phần 7:

Sau1945, tiếp tục phạm tội ác

 

 

Phần 8:

Cảm giác Tự ty và nôĩ nhục của nước NGA

 

 Nguồn: Youtube

 

Thứ Hai, 14 tháng 11, 2011

Thông cáo báo chí: S&P điều chỉnh đánh giá BICRA về Việt Nam từ nhóm ‘9’ lên nhóm ‘10’



Theo: Dự báo KTVN
-
LTS: Với điểm 1 là tốt nhất, 10 là tệ nhất, S&P đánh giá:
1. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam có nguy cơ sụp đổ cao nhất thế giới, 10/10. Hai quốc gia khác có cùng nguy cơ này là Hy lạp và Belarus;
2. Nền KT Việt Nam đang gặp nguy hiểm nhất thế giới, 10/10, do ít nhất ba lý do:
2.1. Không thể chịu đựng, đối phó nổi một cơn sốc kinh tế, tài chánh,
2.2. Nền KT bị mất cân đối nghiêm trọng vào bậc nhất
2.3. Tín dụng đang ở vào tình trạng tối nguy hiểm;
==> Đây là overtures mở đầu cho một vòng đánh SỤT TÍN DỤNG QUỐC GIA VIỆT NAM trong thời gian rất gần đây, có thể tính từng ngày, hoặc tuần.
Bản đánh giá của S&P đã không thể qua mắt các nhà đầu tư ngoại quốc.
Đa số họ có news subscription từ các cty như S&P, Fitch, Moody’s, vi khỏi phải tốn thời gian tự tìm tài liệu, tin tức, chỉ cần bỏ tiền ra mua subscription về tin VN, ĐNÁ, thì mỗi ngày vài lần họ nhận emails về các việc thế này.
Khỏi cần ai dạy bảo, các nhà đầu tư ngoại quốc tự biết họ phải làm gì.
CAPITAL FLIGHT là chắc chắn, trong thời gian rất gần đây. Ngoại quốc sẽ bán đổ bán tháo bỏ chạy, bỏ của chạy lấy người.
Và nên nhớ đây là đánh giá tệ nhất có thể cho CẢ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ NỀN KT VIỆT NAM, trong khi bên Hy lạp, Belarus, thì chỉ nền KT là bị đánh giá cùng hạng với VN, nhưng HỆ THỐNG NGÂN HÀNG tư nhân của 2 nước này không bị coi là NGUY HIỂM TỘT ĐỈNH như VN.
Xin nhắc lại lần nữa, cả HỆ THỐNG NGÂN HÀNG và NỀN KT VN bị S&P đánh giá là TỒI TỆ NHẤT THẾ GIỚI, không mức độ nào tệ hơn.
Ngay cả Zimbabwe, Pakistan, cộng hòa Chad, Công gô, cũng không tệ như VN.
==> HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM, NỀN KINH TẾ VIỆT NAM CHẮC CHẮN 100% SẼ SỤP ĐỔ TRONG THỜI GIAN RẤT GẦN ĐÂY.
http://dudoankinhte.files.wordpress.com/2011/11/greece-financial-problems.jpg?w=460
————————————————
(Tuyên bố sau đây đã được phát hành bởi cơ quan xếp hạng)
9 tháng 11
TỔNG QUÁT
– Chúng tôi xem xét lại Đánh giá Rủi ro Hệ thống Ngân hàng Quốc gia Việt Nam sau khi công bố thay đổi phương pháp luận.
– Chúng tôi điều chỉnh Đánh giá Rủi ro Hệ thống Ngân hàng Quốc gia (BICRA) của Việt Nam từ “Nhóm 9″ lên “Nhóm 10″ do thay đổi phương pháp luận.
– Chúng tôi cũng điều chỉnh mức độ rủi ro kinh tế Việt Nam từ ‘9’ lên ‘10’, và đánh giá rủi ro ngành là ở mức điểm ‘8’.
HÀNH ĐỘNG CỦA BICRA
Ngày 09/11/2011, Dịch vụ Xếp hạng Tín dụng Standard & Poor’s điều chỉnh Đánh giá Mức độ Rủi ro trong Hệ thống Ngân hàng (BICRA) của Việt Nam từ ‘Nhóm 9’ lên ‘Nhóm 10’ do thay đổi phương pháp luận. Tổ chức này cũng gia tăng mức độ rủi ro của nền kinh tế từ ‘9 điểm’ lên ‘10 điểm’ và đánh giá độ rủi ro ngành ở mức ‘8 điểm’.
LÝ DO
Chúng tôi đánh giá mảng ngân hàng của Việt Nam bằng phương pháp luận BICRA mới cập nhật của chúng tôi. Các nhóm BICRA thể hiện quan điểm của chúng tôi về rủi ro của một ngân hàng hoạt động trong một quốc gia đối mặt cũng như một hệ thống ngân hàng cụ thể phải đối mặt so với mức độ rủi ro tại các hệ thống ngân hàng khác. Nhóm ‘1’ là nhóm có mức độ rủi ro thấp nhất còn Nhóm ‘10’ là nhóm có mức độ rủi ro cao nhất. Các quốc gia khác thuộc nhóm BICRA 10 là Hy Lạp và Belarus.
Mức điểm rủi ro kinh tế “10” của chúng tôi cho Việt Nam phản ánh “rủi ro nghiêm trọng” đối với sự linh hoạt của nền kinh tế, sự mất cân bằng kinh tế và rủi ro tín dụng “tối nguy hiểm” của nền kinh tế.
Việt Nam là nước có thu nhập thấp, hệ thống tài chính và khung chính sách còn đang phát triển. Những điểm yếu này càng nâng cao khả năng dễ bị tổn thương của nền kinh tế trước những cú sốc lớn. Những viễn cảnh tăng trưởng lạc quan được hỗ trợ bởi nỗ lực bền bỉ của chính phủ trong việc tái cấu trúc nền kinh tế, phần nào bù đắp những điểm yếu này.
Chúng tôi cho rằng Việt Nam có nguy cơ mất cân bằng kinh tế nghiêm trọng, thể hiện qua tăng trưởng tín dụng nhanh trong vòng vài năm qua. Tăng trưởng mạnh về giá nhà đất cũng góp phần vào mức độ rủi ro khi giá cả rớt mạnh.
Việc đánh giá “rủi ro tín dụng tối nguy hiểm” của nền kinh tế Việt Nam dựa trên mức tín dụng khu vực tư nhân cao, mức thu nhập thấp và tiêu chuẩn bảo lãnh thô sơ. Theo quan điểm của chúng tôi, hệ thống pháp luật thiếu hiệu quả có thể khiến hồi phục chậm và chậm trễ trong giải quyết tài sản kê biên.
Trong khi đó, mức điểm rủi ro ngành ‘8’ phản ánh độ rủi ro “tối nguy hiểm” đối với khung chính sách, “rủi ro nghiêm trọng” đối với động lực cạnh tranh và “rủi ro trung bình” đối với việc cấp vốn trong toàn hệ thống.
Quan điểm của chúng tôi về khung chính sách của Việt Nam là tiêu chuẩn khung chính sách của Việt Nam còn thiếu các tiêu chuẩn quốc tế và ngân hàng trung ương dễ bị tổn thương trong chính các thỏa thuận của mình. Chúng tôi không tin rằng một hệ thống cảnh báo sớm hiệu quả có thể sử dụng như công cụ giám sát ưu tiên. Chúng tôi nhận thấy can thiệp chính sách thường là đối phó hơn là chủ động. Quan điểm của chúng tôi là khung chính sách càng yếu hơn do sự yếu kém trong điều hành và minh bạch. Hầu hết các ngân hàng không công bố báo cáo tài chính kịp thời, và thường không đầy đủ chi tiết.
Trong đánh giá của chúng tôi về động lực cạnh tranh, rủi ro cho các ngân hàng chỉ ở mức trung bình và chủ yếu ở tăng trưởng. Chúng tôi nhận thấy thị trường đang bão hòa tương đối dẫn đến cạnh tranh giữa các ngân hàng cả về vốn vay và tiền gửi. Chúng tôi cho rằng áp lực lãi suất biên ròng tạo sức ép tới khả năng định giá đầy đủ rủi ro của các tổ chức tài chính nhỏ và yếu. Hơn nữa, chúng tôi tin rằng hệ thống ngân hàng bị méo mó do việc áp dụng thường xuyên các mệnh lệnh hành chính.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam, được hỗ trợ bởi lượng tiền gửi lõi của khách hàng ở mức ổn định, ít phụ thuộc vào các nguồn vốn bên ngoài. Tuy nhiên, có rất ít các nguồn vốn khác cho các ngân hàng sử dụng cho thấy thị trường vốn nội địa của Việt Nam rất eo hẹp và yếu. Chúng tôi tin rằng chính phủ vẫn đóng vai trò hỗ trợ trong nguồn vốn cho các ngân hàng nếu cần.
Chúng tôi đánh giá chính phủ Việt Nam “hỗ trợ cao” cho các ngân hàng trong nước. Chúng tôi đã theo dõi được sự hỗ trợ dành cho các tổ chức quan trọng trong hệ thống, bao gồm việc bơm vốn.
TIÊU CHUẨN VÀ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
– Giả thuyết và Phương pháp luận Đánh giá Rủi ro Hệ thống Ngân hàng Quốc gia, 9 tháng Mười Một, 2011
– Standard & Poor’s BICRAs Nhấn mạnh sự Thay đổi Cân bằng trong Ngân hàng toàn cầu, 9 tháng Mười Một, 2011
– S&P’s BICRAs Dự liệu Rủi ro Ngân hàng của 86 Quốc gia, 9 tháng Mười Một, 2011
Nguồn: Reuters, TEXT-S&P: BICRA on Vietnam revised to Group ’10′ from Group ’9′, 9/11/2011, URL: http://www.reuters.com/article/2011/11/09/idUSWLA880420111109
Dịch bởi Dự đoán kinh tế Việt Nam, 11 Tháng Mười Một 2011

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Giáo sư Văn Như Cương nhầm rồi!

Nguyên Ngọc
Sau khi đưa bài Để nhận ra cái biện chứng lạ lùng và tất yếu của lịch sử trên SGTT, mình nhận được email của bác Nguyên Ngọc gửi cho bản gốc, với lời nhắn: “Đây là bài nguyên văn, Sài gòn tiếp thị đã cắt hơn nửa bài. Tùy Lập sử dụng.” Rất mừng, xin chân thành cảm ơn bác Nguyên Ngọc đã gửi cho bản gốc, đọc rất sướng.
Giáo sư Văn Như Cương viết: “Trong kì thi đại học vừa qua, điểm thi môn Sử thấp một cách thảm hại. Nói chung chỉ độ 4% trên điểm trung bình. Nhiều trường có tới 99% điểm dưới trung bình, mà chủ yếu là điểm 0 và điểm 1. Có trường chỉ 1 thí sinh có điểm 5 là cao nhất. Vẫn biết chuyện dạy Sử và học Sử từ trước đến nay đã có nhiều vấn đề nhức nhối, nhưng một kết quả như năm nay thực sự làm cho xã hội xôn xao, và làm đau đầu các nhà quản lí giáo dục, các nhà sử học, các thầy giáo, học sinh và cha mẹ học sinh…”
Thưa giáo sư Cương, ông nhầm rồi! Có một nhà quản lý giáo dục, mà là người đứng đầu, có trách nhiệm lớn nhất trong các nhà quản lý giáo dục, không hề “đau đầu” như giáo sư tưởng và tin. Trái lại, với cái đầu vô cùng thanh thản, hết sức vui vẻ thoải mái, tuyệt đối bình tĩnh, ông ấy nói: “Đấy là chuyện bình thường”. Chuyện nhỏ xíu ấy mà, gì mà rối lên thế! Thậm chí thấp vậy chứ thấp nữa, chẳng hạn toàn bộ thí sinh thi sử đều bị điểm không, cũng chẳng lay chuyển được sự bình tâm của ông, bởi vì ông đã có một phép mầu, ông đã tìm ra một thủ phạm tuyệt đối và tuyệt vời: Thời đại! Chắc như đinh đóng cột và với một sự liều lĩnh khó tin, ông tuyên bố trước những người đối thoại: “Điểm Lịch sử thấp là vấn đề của thời đại. Các bạn hãy nhìn rộng ra nhiều nước, không chỉ ở Việt Nam có hiện tượng ấy… Có những thứ do thời đại, do xu thế phát triển tác động. Nhìn kỹ một chút các bạn sẽ thấy môn lịch sử kém thu hút, điểm Lịch sử thấp không phải chỉ ở Việt Nam, ở châu Á. Đó là chuyện của thời đại, của thế hệ này, do cách mạng khoa học công nghệ, do sự biến đổi, đòi hỏi của thị trường lao động…” Nghĩa là ngoài “thời đại”, ông còn tìm ra thêm được mấy thủ phạm đích đáng nữa, đều là con đẻ của cái “thời đại” chết tiệt kia: “xu thế phát triển”, “thế hệ này”, “cách mạng khoa học công nghệ”, “sự biến đổi đòi hỏi của thị trường lao động” v.v…
Liều lĩnh khó tin, bởi xin hỏi: nhờ ông “nhìn rộng ra” và chỉ cho biết, dù chỉ một ví dụ thôi, với tất cả các thủ phạm như ông đã dễ dàng phát hiện, có nơi nào trên toàn thế giới có kết quả thi môn lịch sử thê thảm như vừa rồi trong nền giáo dục do ông đảm trách trước quốc dân?
Đây là chuyện hết sức nghiêm túc, nên cũng phải nói với nhau rất nghiêm túc.
Trước hết, chính các thứ thời đại, xu thế, thế hệ, cách mạng khoa học công nghệ, biến đổi thị trường lao động… như ông vừa kể lại đòi hỏi hơn bao giờ hết phải coi trọng  khoa học xã hội nhân văn, trong đó có sử và môn sử (và cả môn văn nữa, mà kết quả vừa rồi cũng chẳng hay ho hơn mấy). Xin nêu một bằng chứng: chính là đứng trước những vấn đề như vậy, mà cách đây mấy năm trường đại học Harvard nổi tiếng của Mỹ đã rà soát lại toàn bộ chiến lược của họ, và nghiêm khắc nhận ra, mặc dầu đã cố gắng rất nhiều, họ vẫn còn coi trọng chưa đủ các môn xã hội nhân văn và quyết chuyển hướng mạnh mẽ hơn nữa vào các môn ấy. Bởi vì đối với bất cứ xã hội nào, ở bất cứ “thời đại” nào, thời đại phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ thì càng khẩn thiết hơn, chính khoa học xã hội nhân văn là hết sức cần thiết để giữ cái nền bền chắc cho xã hội và con người, cho sự phát triển bền vững, cho con người dẫu có khoa học công nghệ cao đến đâu, vật chất nhiều đến đâu, cũng vẫn còn là con người chứ không phải là những cái máy khô cằn, nhất là những cái máy chỉ biết hau háu làm ra tiền và nhai tiền. Giữ cho nhân loại còn là nhân loại, chứ không là một đống những vật tinh xảo mà vô cảm và vô lương. Một xã hội quay lưng lại với các khoa học xã hội và nhân văn là một xã hội suy đồi. Một nền giáo dục trong thực tế liệt khối C xuống hạng bét, để cho “chuột chạy cùng sào mới vào khối C”, là một nền giáo dục suy đồi. Và bế tắc. Buồn thay đó chính là tình trạng thực của nền giáo dục chúng ta hiện nay. Và đừng nói rằng điều đó không liên quan gì đến tội ác gia tăng trong xã hội, và cả trong học đường, làm nhức nhối toàn xã hội, còn những người đứng đầu ngành giáo dục thì bình chân như vại. Tất nhiên vấn đề ở đây lớn hơn vấn đề giáo dục, lớn hơn vấn đề của ngành giáo dục, nhưng muốn nói gì thì nói, ngành giáo dục phải chịu trách nhiệm chính. Bởi vì nó được sinh ra, xã hội bỏ tiền mồ hôi nước mắt ra nuôi nó, là để nó làm trước hết công việc ấy: giữ cái nền bình ổn lâu dài vững chãi cho xã hội, cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Quả đã đến lúc cần rà soát lại một cách căn bản toàn bộ chiến lược của nền giáo dục này; và câu hỏi căn bản, đầu tiên là: nó định chế ra máy hay đào tạo ra người? Nếu quả nó định đào tạo ra người thì nhất thiết không vì bất cứ lý do gì, vì lý do “thời đại” càng không, có thể để mặc cho khối C lủi thủi như vậy, không thể coi kết quả thảm hại của thi sử năm nay là bình thường. Đấy là thảm họa, bởi vì đấy không chỉ là chuyện kết quả học sử thi sử như thế nào, mà là dấu hiệu con người coi các giá trị tinh thần và nhân văn chẳng còn đáng xu nào! Một thảm họa xã hội!
 Mấy hôm nay nhiều người đã bàn tán xôn xao về sự cố này, và nhiều ý kiến đã tập trung vào cách dạy và học sử. Chắc đều đúng. Tuy nhiên hình như cũng chưa đến lõi của vấn đề. Hẳn ai cũng biết trong các môn học ở trường hiện nay, bị học sinh sinh viên chán nhất, ghét nhất, do đó cũng học kém nhất, học một cách đối phó nhất, kết quả tất cũng tệ nhất là môn sử và môn văn – cùng một vài môn khác thuộc cái gọi là “chương trình cứng” – . Vì sao? Rất đơn giản, và chắc cũng không ít người biết rõ nhưng vì lý do này khác đã không nói ra. Thôi thì cho tôi nói thật vậy: vì đó là những môn bị chính trị hóa nhiều nhất, nặng nề nhất! Chính trị chắc chắn không có gì là xấu, trái lại là khác. Rất cần thiết và cũng có thể rất hay. Học chính trị là quá cần thiết chứ, và có thể dạy thật hay nữa. Nhưng sử là sử, văn là văn, chính trị là chính trị, không thể và hoàn toàn không nên lẫn lộn, dùng cái này để làm cái kia, đem cái này làm công cụ cho cái kia. Cũng không phải là “thống soái” để cho tất cả những cái khác, môn khác phải châu vào cúi đầu phục vụ nó. Mỗi cái có chức năng riêng không thể thay thế của nó để làm nên con người ra người. Nói trắng ra, hiện nay người ta chán, ghét học văn, học sử, là vì dạy văn thì có thật sự dạy văn đâu mà là dùng văn để dạy chính trị, chủ yếu để dạy chính trị. Sử cũng hoàn toàn như vậy, không hề khác. Một ví dụ: có lần tôi đã nói với một người hiện có vị trí rất cao trong lãnh đạo đất nước rằng tất cả các đề thi sử tốt nghiệp và thi vào đại học gần 40 năm nay đều chỉ hỏi về lịch sử Việt Nam từ sau năm 1930. Cứ như chỉ từ năm 1930 nước ta mới có cái gọi là lịch sử, còn trước đó … chỉ là tiền sử, là thời man dã, người còn là khỉ vượn gì đó thôi chứ chưa thành người! Ông ấy ngạc nhiên hỏi thật thế sao? Thì anh cứ kiểm tra  mà xem, tôi bảo. Không biết sau đó ông ấy có kiểm tra không, nhưng rồi không thấy ông nói gì nữa … Học sử học văn như thế, thú thật đến tôi cũng chán ghét, và đi thi chưa chắc đã được 0,5 điểm như thí sinh tội nghiệp vừa rồi.
Ông Bộ trưởng hỏi: Thì tin học có gì hấp dẫn đâu nào, tại sao người ta vẫn lao vào học? Một là, hấp dẫn quá chứ, ít nhất nó cũng cho ta thấy con người có thể sáng tạo ra những thứ thông mình đến chừng nào, chẳng thú vị sao? Nhưng còn có điều quan trọng hơn: nó không bị chính trị hóa, không dễ gì chính trị hóa nó như văn và sử.
Vậy đó, sự thật! Còn e dè, sợ “nhạy cảm”, tránh né nhau, kiêng sợ những lực lượng vô hình như thần thánh, không dám nói thật ra thì có thay đổi cách học cách dạy đến mấy, khéo sang năm môn sử lại 99,99% dưới điểm 5 cho mà xem. Và văn cũng không hơn đâu. Nhìn thẳng, nói thẳng một lần cho xong đi, để mà còn tiến lên cùng thiên hạ, để có một nền giáo dục thực sự lành mạnh và hiệu quả, đào tạo con người ra người, cho một đất nước thật sự văn minh.
Gần đây giáo sư Ngô Việt Trung, viện trưởng Viện Toán học Việt Nam, đã nói rất thẳng thắn: Phải tách khoa học ra khỏi thế quyền. Giáo sư Hoàng Tụy thì nói: Phải “thế tục hóa”nền giáo dục của chúng ta. Ai cũng biết cuộc cách mạng về giáo dục ở chấu Âu đưa đến nền giáo dục hiện đại rực rỡ ngày nay, là kết quả tuyệt vời của cuộc đấu tranh thế tục hóa giáo dục, giải phóng giáo dục ra khỏi kìm chế lâu dài của Nhà thờ. Cần hiểu lời Hoàng Tụy trong ý nghĩa đó.
 Nhân nói chuyện sử, xin kể điều này: Ở Pháp có một tổ chức do các nhà sử học độc lập lập ra, tên là CVUH (Comité  de Vigilance face à l’usage public de l’histoire), có thể dịch là Ủy Ban Cảnh giác đối mặt với việc đưa Lịch ra sử dụng trong Công chúng. Vậy đó, lịch sử luôn rất dễ bị lợi dụng, thậm chí bóp méo, cắt xén, cắt nghĩa tùy tiện bởi các thế lực khác nhau nhằm làm công cụ cho những mục đích phi lịch sử. Ở nhà trường, cảnh giác với lợi dụng này càng phải ráo riết hơn. Học lịch sử tuyệt nhiên cũng không cần nhớ thuộc lòng đến mụ mị bất cứ ngày tháng phiền phức và vô ích nào, khi như lời ông Bộ trưởng, chúng ta đang sống trong “thời đại” này, cái thời đại chỉ cần nhẹ tay nhấp chuột là ra tất cả. Học sử là để có cái mà không bất cứ con chuột hiện đại nào nhấp ra được cho ta: nhận ra được biện chứng lạ lùng và tất yếu của lịch sử, để mà biết làm người cho xứng đáng người, làm công dân độc lập, tự chủ, sáng tạo, đầy trách nhiệm của nước Việt và của thế giới. Đặc biệt hôm nay, khi vận mệnh Tổ quốc một lần nữa lại đứng trước thử thách lớn.
N. N
Tác giả gửi cho Quêchoa